Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Hồi Ký: Nguyễn Bá Nghiệp OAM* 

Cùng quý độc giả

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) và một tàu đánh cá với tổng số chỉ có hai mươi lăm người mà phần lớn là cựu quân nhân hải quân VNCH và ngư phủ đã quen với nghề đi biển nhưng vẫn gặp những biến cố bất ngờ trên đường vượt biên. Mong rằng hồi ký này không ngoài mục đích để lại cho thế hệ sau những gì thế hệ đầu tiên đặt chân đến Úc châu ra sao? Vì sợ rằng tuổi già sẽ làm phai mờ trí nhớ có thể mất đi nhiều chi tiết . . .

1977 – 2020 : Bốn Mươi Ba Năm Nhìn Lại

Tôi sanh ngày mùng 9 tháng Giêng năm Kỷ Mão, quê quán làng Lai Hòa, Bạc Liêu. Ông nội là ông Hương Cả trong làng và cũng là nghị viên Hội Đồng Quản Hạt tỉnh Bạc Liêu. Năm 1947 tôi lên tám, theo cha qua Nam Vang, Cao Miên. Cha tôi làm việc cho công ty S.I.D.I.T. của Pháp chuyên về xây cất và sửa chữa hoàng cung thời Vua Sihanouk. Tôi học trường Providence des Soeurs de Portieux rồi chuyển qua trường Miche thuộc Dòng Sư Huynh De  La Salle. Tôi gia nhập  đoàn Hướng Đạo Pháp có tên Groupe Guy De Larigaudie*, Scout de France 1ère Phnom Penh. Phần lớn đoàn sinh là con em của công chức người Pháp. Đoàn quán đặt trong khuôn viên Tòa Tổng giám Mục Phnom Penh. Một điều mà tôi học hỏi được trong phong trào Hướng Đạo là “ Đời Là Những Cuộc Phiêu Lưu được coi như là Trò Chơi Lớn”. Theo gương của Tráng Sinh Guy De Larigaudie mọi việc trên đời dù khó khăn cách mấy cũng nên coi như một trò chơi đầy thử thách và ta cần cố gắng hết sức để hoàn thành.

Năm 1956 tôi theo cha trở về Việt Nam và tiếp tục học trường Sư Huynh La Salle trước khi gia nhập Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1960.

Tháng 10 năm 1963 tôi được gửi đi Hoa kỳ tu nghiệp ngành hải hành (Radar Navigation) tại Tiểu bang California. Trường này trực thuộc trường chuyên nghiệp Hải quân Hoa Kỳ. Tại đây tôi học sử dụng và bảo trì Radar SPS6C là loại Radar tối tân, thường được gắn trên các chiến hạm hiện đại nhất của Hoa kỳ lúc bấy giờ, và thực tập trên các chiến hạm có ICC (Information Combat Centre/Trung tâm Hành quân (Biển).

Tháng 4-1975 tôi đang phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải, Cát Lở – Vũng Tàu. Vì hai con trai còn nhỏ đang gửi cho ông bà nội ở Gia Định nên vợ chồng tôi gấp rút chạy về Saigon, định sáng sớm hôm sau sẽ trở ra Vũng Tàu. Xui một nỗi khi trở ra đến Thủ Đức thì bị chặn lại, chúng tôi phải quay về Gia Định à thay vì vào bến Bạch Đằng thì lại dại dột ở lại vì nghe lời bác tôi, dìu dắt nhau xuống Vĩnh Long là nơi có nhà và vườn trái cây bên An Thành. Không dè lúc trước đây là nơi cộng sản nằm vùng. Đúng là mình tự đút đầu vào hang cọp mà không hay. Tôi bị nhốt vào khám lớn Vĩnh Long.  Hai tháng sau giữa đêm bị đưa đi tập trung chung với các thành phần hồi chánh và du học Hoa Kỳ, vì họ nghi ngờ là Xịa (CIA). Cùng chung số phận còn có một số đồn trưởng địa phương quân bị CS kết tội nợ máu với nhân dân.  Gần trăm người bị nhốt tại một đồn địa phương quân có tên là Ngã Tư Nhà Đài thuộc tỉnh Trà Vinh. Ban đêm ai cũng như ai, phải xỏ chân vào khoen chữ U; mỗi nhóm mười người xỏ chung một thanh sắt dài chừng sáu, bảy thước. Vì trước kia chung quanh đồn gài mìn và kẽm gai nhiều lớp (ngập nước) nên trâu đạp phải. Sáng ra quản giáo bắt một số tù tình nguyện, thường là những cựu đồn trưởng có nhiều kinh nghiệm về mìn bẫy đi gỡ.

Tháng tư 1976 có đợt thả cấp chuyên viên. Tôi may mắn được tha về Saigon, vào làm Công Ty Vận Tải Đường Sông với nhiệm vụ điều hành bảy đoàn tàu kéo đá clinker (đá làm xi măng) từ Kiên Lương về Xi măng Hà Tiên – Thủ Đức. Tôi lợi dụng chức vụ trưởng đoàn tàu  (lúc đó gọi là thuyền trưởng chỉ đạo) xin giấy phép trở về phòng hải đồ Hải quân xin các giang đồ và hải đồ cho công ty để trong tương lai sẽ huấn luyện các tài công đưa muối và gạo đi Phú Quốc. Tôi may mắn gặp lại anh bạn đồng nghiệp giám lộ nên anh lén cho tôi bản đồ tổng quát  (Navigation Charts Index) và một cặp thuớc Crass là thước đo hải đồ. Những hải đồ này chi tiết rất nhỏ nhưng có thể sử dụng tương đối tốt cho việc vượt biên về hướng Philipines, Singapore, Indonesia và Australia (cho toàn vùng Đông Nam Á).

Bàn làm việc trong công ty nằm bên lối đi vào văn phòng giám đốc nên khi chủ tàu đi vào thấy tôi đang soạn các hải đồ đã tìm cách đến nhà tôi gạ chuyện vượt biên. Tôi đồng ý với điều kiện vợ và hai con tôi phải được đi theo. Cũng nên nói là lúc đó nhà tôi đã gần ngày sanh nở. Chủ tàu nói ngày giờ khởi hành chỉ thông báo vào phút chót. Đó là điều kiện tiên quyết.

 

Ngày N

Tàu Hải Triều đưa đón hoa tiêu là loại tàu đi biển, thường dùng để đưa thuyền trưởng hoa tiêu địa phương ra đón các thương thuyền đang đậu ngoài khơi và lai dắt vào cảng. Tàu dài mười sáu thước, gắn máy Kabuta 3 lốc khá mạnh, có thể chạy trên 10-12 hải lý/giờ. Tàu có hải bàn từ và đủ đèn hải hành, kể cả đèn chớp tín hiệu để liên lạc các thương thuyền trước khi hoa tiêu dẫn tàu vào cảng. Tàu được sơn màu xám đậm nên ở xa dễ lầm là tàu hải quân.

Trước khi vượt biên chủ tàu cẩn thận rà lại từng tấm ván dưới lườn và đóng thêm đinh cho chắc. Phần tôi thì cứ đi làm về là tôi lo nghiên cứu từng đoạn đường tàu sẽ đi, tính toán mỗi đoạn bao nhiêu hải lý, mất bao nhiêu ngày giờ v.v. và học thuộc lòng từng đoạn. Cùng thời gian đó chủ tàu xin Công ty cấp lệnh công tác chở muối đi Phú Quốc cho các công ty quốc doanh sản xuất nước mắm tại Dương Đông.

 

Nhà thờ Fatima Bình Triệu

Con gái tôi chào đời tại nhà bảo sanh Bác sĩ Dưỡng gần đầu chợ Gia Định. Được ba tháng thì chủ tàu cho biết sẽ khởi hành và điểm hẹn là trước nhà thờ Fatima Bình Triệu. Khi gia đình tôi đến chỗ hẹn thì vợ con và các em của chủ tàu đã có mặt. Một lúc sau chủ tàu là anh Huỳnh Văn Đức lái xe camionnette hơ hải đến và nói là đã bị lộ nên tất cả đàn bà và trẻ con phải ở lại và chỉ có chủ tàu Huỳnh V. Đ., hai em T. và T cùng đứa cháu và tôi lên xe chạy thẳng ngang qua Bà Rịa đến cầu Cỏ May và lên tàu mở máy chạy. Lúc đó lòng tôi rối bời vì phải bỏ vợ con lại, nhứt là đứa con gái mới ba tháng tuổi nên khi tàu chạy qua Duyên đoàn 33 và cầu tàu Cát Lở, thay vì giữ tàu sát bên trái tôi lại cho tàu chạy giữa sông và hậu quả là tàu rướn lên cồn cát. Lúc đó khoảng hai giờ chiều và thủy triều đang ở mức thấp nhất. Tôi cho tàu loay hoay gần cả tiếng đồng hồ thì từ phía căn cứ Duyên đoàn 33 truớc kia một chiến đĩnh nổ máy sửa soạn chạy qua, không biết để cứu kéo tàu chúng tôi hay để xét hỏi gì đó. May mắn lúc đó thủy triều bắt đầu lớn, nước dâng cao nên tàu lùi lại dễ dàng và thoát khỏi cồn cát cho nên chiến đĩnh ngừng lại, để cho tàu chúng tôi ra biển.

Khi tàu qua hàng đáy Bãi Trước, tôi nhìn lại bãi biển Vũng Tàu, nơi có biệt thự PO 5 mà tôi có nhiều kỷ niệm khi còn phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 3 Duyên Hải. Tôi cho tàu đổi hướng 180 độ về hướng Poulo Condor tức là Côn Sơn. Tôi nhìn ngọn hải đăng mờ dần, mờ dần mà lòng buồn tê tái. Ra đi mà phải bỏ lai vợ con, biết khi nào mới gặp lại.

Trên tàu còn có một người nữa cũng buồn như tôi vì cùng hoàn cảnh như tôi đó là em Trần văn T., em vợ của chủ tàu*. Sau khi qua khỏi hàng đáy bãi trước Vũng Tàu tôi lái thẳng ra khơi hướng 130 độ cho đến sáu giờ chiều thì đổi hướng 230 độ TN. Lúc này trời bắt đầu tối, tàu xuôi Nam mà lòng thương nhớ vợ con, không biết bao giờ gặp lại! Trời tối đen, chỉ có ngọn đèn màu xanh mờ trong phòng lái. Bỗng nhiên trước mặt có những ánh đèn bật sáng lòa từ lái đến mũi và hình dáng của loại tuần duyên hạm (loại WHEC) có chiều dài gần một trăm thước. Tôi vội vàng lái sang bên trái thì tàu chỉ cách chiến hạm không đầy hai trăm thước, cùng lúc tôi bật đèn hải hành thì biết con tàu nhỏ bé chỉ còn chút xíu nữa thì đụng vào phần lái của chiến hạm nầy, hậu quả không biết ra sao!

Gần sáng hôm sau tôi thấy đèn Côn Sơn bên trái và biết mình đã chạy đúng đường nên sáng hôm sau thay vì đổi hướng 270 độ đi về Phú Quốc như trong lịch trình công tác thì tôi lại chạy thẳng Mã Lai. (Sau nầy tôi được biết nếu tôi lái tàu theo hướng Phú Quốc thì trên tàu sẽ thanh toán tôi ngay).

Read more

Read more

Nguyễn Bá Nghiệp OAM*

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm

Đảo Ruồi

Đảo Ruồi

Đảo Ruồi

Hồi Ký: Carina Hoang

Cho đến bây giờ tôi vẫn thường tự hỏi làm thế nào mà chị em chúng tôi vẫn còn sống sót. Đúng như người ta thường nói, con người là một sinh vật vô thường, có khả năng thích ứng tuyệt vời và có bản năng sinh tồn mạnh mẽ.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, cuộc sống chúng tôi trở nên vô cùng khó khăn. Cha tôi bị cộng sản bắt giam gần mười bốn năm vì ông là sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và nhà của chúng tôi thì bị tịch thu ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Mẹ tôi phải một mình đùm bọc, nuôi nấng bảy người con dại, mẹ ruột, mẹ chồng, và thăm nuôi chồng ở trong tù từ miền Nam ra đến miền Bắc.

Với lý lịch là con của ‘ngụy’, có cố gắng lắm thì chị em chúng tôi cũng chỉ được phép học hết cấp trung học.  Một tương lai tươi sáng là điều khó có thể hình dung. Thêm vào đó, với tình hình luôn biến động làm cho mọi người lúc nào cũng ở trong trạng thái sợ hãi lo âu vì không biết điều gì sẽ xảy đến tron nay mai.

Mặc dù nhiều gia đình với hoàn cảnh tương tự đã cho con cái của họ rời khỏi Việt Nam, mẹ tôi không đủ can đảm để cho chúng tôi ra đi mà không có mẹ cha. Đến năm 1978, khi cuộc chiến giữa Việt Nam và Campuchia xảy ra, với ba đứa con lớn trong gia đình chúng tôi đang vào lứa tuổi thanh thiếu niên, sớm muộn gì cũng sẽ bị đưa đi nghĩa vụ quân sự. Lo sợ mất con nơi chiến trường, cuối cùng mẹ tôi đành để các con tự vượt biên.  Bà không thể ra đi khi cha của tôi vẫn còn ở trong tù; bên cạnh đó, bà chỉ có khả năng trang trải chi phí cho hai hoặc ba người mà thôi.

Sau vài lần ra khơi bị thất bại, vào ngày 31 tháng 5, năm 1979, tôi cùng hai người em đã thực hiện cuộc vượt biên đầy cam go.  Khi ấy tôi 16 tuổi, em trai 13 tuổi và em gái 12 tuổi.  Chúng tôi dùng giấy khai sanh giả kê khai là người Việt gốc Hoa, trà trộn với 370 người khác rời bỏ quê hương và gia đình bằng một chiếc thuyền bằng gỗ rộng 4.5 m, dài 25 m. Trên thuyền có tổng cộng 75 trẻ em, kể cả ba chị em chúng tôi.

Đêm đầu tiên sau khi ra khơi, chúng tôi đã phải đối mặt với một cơn bão khủng khiếp. Những đợt sóng khổng lồ liên tục đưa con tàu lên cao ngất, rồi đột ngột tàu bị quật mạnh xuống mặt biển làm mọi người ngã sóng soài lên nhau.  Có nhiều lúc tưởng chừng như con tàu sẽ bị sóng đánh vỡ tan. Tôi hình dung chiếc tàu của mình như một chiếc nôi nhỏ bé đang bị một con thú khổng lồ, trong cơn tức giận, nắm lắc một cách điên cuồng.

Tôi không thể nào quên được âm thanh của đêm hôm đó. Bên ngoài sấm sét vang trời, cộng thêm tiếng sóng ào ạt không ngừng đánh vào mạn tàu.  Bên trong tàu thì trẻ em khóc, người lớn gào, pha lẫn với những lời khấn cầu tha thiết. Tiếng Việt lẫn tiếng Trung Hoa, hàng trăm người đồng xướng những lời cầu nguyện đến đấng cứu thế của riêng họ, Chúa Giê-Su, Đức Mẹ Maria, Phật Quan Âm, Ông Bà, Tổ Tiên. Chưa bao giờ cảm thấy mình bất lực đến thế, tôi không ngừng đọc câu kinh mà tôi đã học từ mẹ ‘Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn chúng sinh’.  Mỗi lần thuyền sắp sửa rơi xuống từ ngọn sóng cao, tiếng cầu nguyện của mọi người càng dồn dập hơn và tha thiết hơn.   

Sau này tôi thường bị thức giấc bởi những tiếng kêu gào và cầu nguyện đó, phát ra từ hàng trăm con người, vang vọng trong đầu tôi. Không có từ ngữ nào có thể mô tả thứ âm thanh hỗn độn và kỳ quái này.

Ngày hôm sau, khi cơn bão đã dịu xuống, hầu hết mọi người đã kiệt sức, nằm, ngồi rũ rượi giữa một hỗn hợp nhớp nhúa và hôi tanh của nước biển pha lẫn chất nôn mửa và nước tiểu.

 Đến chiều ngày thứ ba của cuộc hành trình, tàu chúng tôi tiến gần đến Mã Lai nhưng đã bị ngăn không cho vào bờ. Một nhóm lính Mã Lai đã dùng súng bắn về hướng tàu của chúng tôi, sau đó họ nhảy lên trên tàu lục soát và tước đoạt những đồ vật quý giá, kể cả cái hải bàn và bản đồ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn rùng mình khi hồi tưởng đến hình ảnh người lính Mã Lai cao lớn, đứng trước mặt chị em tôi, chĩa họng súng vào đầu em trai của tôi và ra dấu cho tôi cởi sợi dây chuyền em đang đeo trên cổ. Sau đó họ dùng dây buộc tàu của chúng tôi vào tàu của họ và kéo tàu chúng tôi ra lại biển Đông. Đến khi trời tối mịt, họ cắt dây kéo, và bắn một vài phát súng chỉ thiên trước khi quay tàu ra đi và bỏ tàu chúng tôi lại lênh đênh trên biển cả.

Hai ngày kế tiếp, tàu chúng tôi bị hai nhóm cướp biển đuổi theo. May thay, tàu chúng tôi chạy nhanh hơn nên nhóm thứ nhất bỏ cuộc. Nhóm thứ hai rượt đến gần tàu của chúng tôi, bỗng nhiên chúng đổi hướng và không đuổi theo nữa. Có lẽ chúng đã nhìn thấy một tàu tỵ nạn khác và cho rằng dễ tấn công hơn. Khi phát hiện tàu của bọn hải tặc đang hướng về tàu của chúng tôi, chủ tàu ra lệnh cho tất cả các phụ nữ và các cô gái đi xuống tầng cuối của tàu. Tôi và hai em vội vã theo họ. Chúng tôi lấy dầu nhớt thậm chí những chất nhờn hôi thối trên sàn tàu để bôi lên mặt, lên tóc, và người để làm cho mình trông càng hôi hám xấu xí càng tốt, với hy vọng rằng bọn cướp biển sẽ không muốn hãm hiếp chúng tôi. Về sau tôi được nghe kể rằng, nếu chúng tôi bị chúng bắt được thì những gì chúng tôi đã làm sẽ không có hiệu quả. Bọn cướp sẽ lột trần chúng tôi ra, rồi dùng vòi nước xịt vào người chúng tôi để tẩy đi những mùi hôi thối trước khi cưỡng hiếp.

Gần bốn trăm con người trên chiếc tàu đi hoài mà không thấy bến bờ. Thức ăn thức uống cũng cạn dần và nhiều người đã kiệt sức. Đến ngày thứ sáu, điều mà mọi người lo lắng, mặc dù không dám nói ra, đã trở thành sự thật. Tử thần đã đến viếng chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên là một người đàn ông gần bảy mươi tuổi. Người thân cho biết là ông chết vì ngạt thở và đói. Rồi đến một bà cụ ngoài bảy mươi. Bà ngồi bó gối suốt sáu ngày đêm, bên cạnh các con, cháu. Từ lúc đặt chân xuống tàu cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, bà chỉ ngồi ở một vị trí và với một tư thế mà thôi.

Tôi chưa bao giờ nghe nói thủy táng, nên khi chứng kiến tận mắt, tôi bị ám ảnh một thời gian thật dài. Thân hình gầy gò của bà cụ được gói trong một tấm chăn nhỏ, rồi cuộn bên trong một tấm bạt ni-lông. Người ta xếp hai đầu tấm bạt lại rồi dùng dây buộc, giống như buộc một đòn bánh. Các con cháu của bà khóc lóc kêu gào thật thảm thiết. Họ nài nỉ chủ tàu cho họ giữ xác của bà để chôn cất khi đến được đất liền nhưng chủ tàu phải từ chối vì không biết chúng tôi phải lênh đênh trên biển đến bao lâu nữa. Hình ảnh những người con cố níu lấy xác của bà khi hai người đàn ông chuẩn bị thả xuống biển đã làm nát lòng những người chứng kiến. Mọi người thầm biết rằng nếu không được cứu vớt hoặc không đến đất liền sớm, thì sẽ còn nhiều xác chết khác bị quăng xuống biển, và không chỉ riêng người già.

Hơn một ngày sau tàu của chúng tôi đã cập vào một làng chài nhỏ trên hòn đảo Keramut của Indonesia, dân số khoảng gần một trăm. Có lẽ họ chưa bao giờ đón số ‘khách’ đông gấp gần bốn lần dân số của mình… Chủ tàu quyết định làm cho chìm tàu để không bị đuổi ra ngoài biển khơi. Người dân địa phương đã cho chúng tôi tá túc ở ven bìa rừng chung quanh nơi họ cư ngụ trong lúc liên lạc với chính quyền của họ. Thật là lạ lùng, ngồi trên thuyền thì không cảm thấy bị lắc lư, nhưng khi chân chạm đất thì tôi lại cảm thấy như mặt đất chòng chành, làm tôi mất thăng bằng và suýt ngã. Có lẽ không riêng gì tôi mà nhiều người khác cũng cảm thấy như vậy.

 Ba ngày sau chúng tôi được chuyển đến đảo gần đó tên là Letung, nơi đây khá đông dân cư, có trường học, chợ, tiệm tạp hóa, văn phòng chính phủ và bệnh xá. Mọi người ngủ tạm trên vỉa hè, bãi biển, hoặc gần chân núi. Ba chị em tôi và hai gia đình đi cùng tàu, hùn tiền lại mướn một căn nhà đổ nát, chỉ còn một thềm xi măng vuông vức, bốn vách tường và một nửa mái nhà để ở tạm. Tổng cộng mười sáu người gồm ba phụ nữ, ba thanh thiếu niên và và hơn bảy đứa trẻ tuổi từ hai đến mười hai tuổi. Tại đây tôi đã nhờ ông chủ tàu đánh điện tín về Việt Nam để cho mẹ và của tôi biết là chúng tôi đã đến được Nam Dương. Hơn mười ngày sau, chính quyền địa phương cho biết là họ sẽ đưa chúng tôi đến trại tỵ nạn.

Mọi người rất vui mừng và nôn nóng sớm được một chỗ ở ổn định để chờ ngày đi định cư ở một quốc gia thứ ba. Đêm trước khi rời Letung, tôi không tài nào ngủ nổi. Mặc dù chưa hề biết trại tỵ nạn ra sao, tôi cũng cố hình dung một khu vực có những dãy nhà tập thể, rồi tôi tưởng tượng lúc được đoàn tụ với chị và em trai đang sống ở Mỹ, và hằng bao nhiêu suy nghĩ khác tiếp tục kéo đến trong trí óc.

Rạng sáng ngày hôm sau, mấy trăm người tập họp lại cầu tàu để chuẩn bị xuống tàu đi đến trại tỵ nạn có tên là đảo Kuku. Lần này mọi người có nhiều hành lý để mang theo hơn so với khi mới đến. Không ai biết tình hình ở trại ra sao, liệu có được cấp phát thức ăn lúc mới đến hay không nên ai có tiền thì cố mua sắm một ít lương thực khô như mì gói, gạo, và một vài món vật dụng cần thiết như bàn chải đánh răng và cần nhất là cái bô vệ sinh bằng nhựa.

Đi trên biển gần nửa ngày, con tàu chở chúng tôi đánh một nửa vòng tròn quanh một cái cù lao nhỏ, rồi chầm chậm hướng vào một hòn đảo có một dãy núi với cây cối um tùm. Tàu vào gần đến bờ, tài công dừng tàu lại, thả neo và ra dấu cho mọi người leo ra khỏi tàu, cùng với tất cả hành lý.

Chúng tôi vác đồ lên vai rồi lội bộ vào một bãi cát dài có hình dáng cong như  trăng lưỡi liềm. Khi người tỵ nạn cuối cùng ra khỏi tàu, tài công tàu nhổ neo và quay đầu ra khơi. Mấy trăm người ngồi rải rác trên bãi cát, bên cạnh người thân và hành lý. Nhìn chung quanh chỉ thấy núi rừng và biển. Tất cả đều hoang mang, không biết tại sao lại dừng lại trên đảo hoang này, và đương nhiên là không biết đến bao giờ họ mới quay lại để tiếp tục đưa chúng tôi đến trại tỵ nạn. Quần áo còn ướt sũng, không ai buồn đi lại. Hầu hết đều ngồi một chỗ, nhìn ra biển đợi tàu trở lại.

Đêm xuống rất nhanh, chỉ trong chốc lát, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuối cùng rồi mọi người cũng ngủ thiếp đi vì mệt và đói. Nhưng chưa được bao lâu thì chúng tôi bị đánh thức bởi một trận mưa rất to. Không có nơi nào để trú mưa, tất cả đều ngồi tại chỗ mà chịu trận. Sau khi tạnh mưa, gần như chẳng ai có thể ngủ lại được. Một phần là do quần áo bị ướt, phần khác là gió thổi làm chúng tôi lạnh cóng. 

Khi trời bắt đầu sáng, một số người thả bộ dọc theo bãi cát, có lẽ để cho thư giãn. Số người còn lại không buồn nhúc nhích, ai nấy đều hướng mắt ra phía biển trông chờ chiếc tàu hôm qua trở lại để tiếp tục đưa chúng tôi đến trại tỵ nạn. Chúng tôi không mong gì hơn là một chỗ ở nhất định. Sau khi đục cho tàu chìm, mọi người tưởng là sẽ ở lại ở đó cho đến khi định cư, nhưng đã chuyển hết hai đảo, và tới đây là nơi thứ ba.

Read more

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm

Sứ Giả Của Tình Thương

Sứ Giả Của Tình Thương

Sứ Giả Của Tình Thương

NHẬT TIẾN – Bút ký viết từ Songkhla

Tôi biết rằng dù mình có diễn tả đến bao nhiêu thì cũng không thể nói hết được tấm lòng của một con người ngoại quốc đã nghĩ đến, đã cảm thông và đã lo toan cho đồng bào ở đây, trại tỵ nạn Songkhla nằm ở miền Nam Thái Lan, ven sát bờ biển và xuống gần biên giới của Mã Lai Á.

Người đó là Linh mục Joe Devlin, một tu sĩ Thiên Chúa Giáo đã từng lăn lộn, chia sẻ với số phận của dân tộc Việt Nam chẳng phải từ bây giờ nhưng ngay từ khi miền Nam chưa mất vào tay CS.

Dấu chân của Ngài đã từng in dấu ở nhiều địa danh miền Nam : Phan Thiết, Long Khánh, Biên Hòa, Vũng Tầu, Bình Tuy, Minh Hải và bây giờ là trại tỵ nạn Songkhla.

L.M Joe Devlin sinh năm 1915 tại Hoa Kỳ. Ngài đậu tiến sĩ Thần học và thụ phong Linh mục năm 1941 tại San Francisco. Ngài đến VN năm 1970, do lời mời của bác sĩ Phan Quang Đán khi đó là Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang, lập ấp. LM Joe đã khởi sự hoạt động tại vùng Đồng Tháp Mười để ổn định đời sống tinh thần cho 10 ngàn đồng bào VN vừa rời khỏi vùng CS về với chính thể quốc gia.

REPORT THIS AD

Năm 1974, Ngài xin ra Phan Thiết để lo vấn đề tỵ nạn do các làn sóng trốn tránh CS từ miền Trung và Cao nguyên đổ về. Ngài thường tự hào nói với chúng tôi rằng mình đã là Boat People trước cả những thuyền nhân ở đây.

Từ năm 1975 đến năm 1979, Ngài hoạt động mạnh mẽ tại các trung tâm tỵ nạn ở Hoa Kỳ.

Tháng 11-1979, Ngài tình nguyện qua phục vụ ở trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan.

Như thế, Ngài đã tới với dân tộc Việt Nam để cảm thông và chia sẻ với số phận của một dân tộc nhược tiểu vốn chìm đắm trong khói lửa từ hơn nửa thế kỷ vừa qua. Ngài cũng tới để cảm thông và chia sẻ với dân VN về những nỗi đớn đau, kinh hoàng trước cơn sụp đổ toàn diện của miền Nam cùng với những nỗi đau thương thống khổ mà mọi nguời đã phải chịu đựng dưới sự thống trị của CS.

 

Và giờ đây, Ngài đã tới với những thuyền nhân vừa chân ướt chân ráo rời con thuyền rách nát lên bờ, quần áo còn tả tơi, khuôn mặt còn chưa phai những nét bàng hoàng vì vừa trải qua những biến cố thảm khốc kinh hoàng trên biển cả. Họ như những kẻ vừa đội mồ chui lên rất cần một bàn tay săn sóc, một sự giúp đỡ dù nhỏ nhặt, và nhất là một sự an ủi tinh thần đối với những tâm hồn đang cực kỳ hoang mang, suy sụp. Linh Mục JOE DEVLIN đã làm được tất cả những công việc đó.

Gần 70 tuổi đời, với thân hình cao lớn, mái tóc bạc phơ, giọng nói ồm ồm như ống lệnh, quần áo giản dị, với một chiếc xe đạp cũ kỹ, Ngài đã mải miết ngày này qua ngày khác, đạp xe đi qua con đường sạn đạo từ tỉnh lỵ Songkhla vào trại tỵ nạn, ở lại với mọi người từ sáng đến chiều, kể cả ngày nắng cũng như ngày mưa.

Vào buổi trưa Ngài cũng không nằm nghỉ để kiên nhẫn đánh vật với một lũ con nít tại lớp học Anh ngữ mà học rò nhiều khi ham vui hơn là ham học. Nhiều hôm lớp học chỉ còn 3, 4 đứa nhưng Ngài vẫn nghiêm chỉnh làm công việc của mình với một tấm lòng tận tuỵ hiếm có, sửa từng giọng đọc, nắn từng câu sai.

Sau giờ dạy học buổi trưa, Ngài xuống khu Nhà Trẻ Không Thân Nhân để giám sát việc chăm sóc các em rồi đến nhà thờ làm Thánh lễ buổi chiều.

Khu Nhà Trẻ Không Thân Nhân đuợc xây cất bằng vật liệu nhẹ khởi sự từ một chuyện xẩy ra ở trong trại vào đúng ngày 28-02-1980. Hôm ấy Ngài đạp xe đi trên con lộ duy nhất của trại mà dọc một bên là các dẫy lô lều, phía bên kia là hàng rào kẽm gai ngăn cách trại với bờ biển. Ngài bỗng bắt gặp một bé gái đang đứng khóc một mình ở bên lề đường. Ngài dừng xe lại hỏi han và phát giác ra được rằng đây là một bé gái không có thân nhân nào trong trại, tên Phương Thu Trang, tuổi lên 10.

Thật ra thì đã có nhiều hoàn cảnh như thế ở đây, có em thì vì cha mẹ, anh chị em đã bỏ xác ngoài biển khơi, có em thì gia đình gửi gấm bà con, bạn bè xuống thuyền vượt biển nhưng khi nhập trại vì ai cũng thiếu thốn cơ cực nên không còn thì giờ bận tâm đến những đứa nhỏ đã đi theo mình.

Ngay buổi chiều hôm ấy, trong buổi thánh lễ tại nhà thờ, Linh mục Joe Devlin đã không giảng đạo mà chỉ bầy tỏ sự giận dữ của mình trước sự thờ ơ của mọi nguời đối với những hoàn cảnh trẻ em bơ vơ như bé Phương Thu Trang. Khuôn mặt của ngài đỏ rừ vì xúc động. Vành môi của Ngài run hẳn lên. Ngài cho thấy là mình không thể tưởng tuợng được những chuyện như thế lại có thể xẩy ra. Rồi Ngài kết luận :

– Tôi muốn rằng từ nay có bất cứ trường hợp nào như vậy thì mọi nguời phải thông báo cho tôi. Không thể để cho trẻ em sống vất vuởng một mình được. Tôi nhắc lại : không thể được !

Thái độ của Ngài đã khiến cho nhiều người bưng mặt khóc vì xúc động.

Ngay ngày hôm sau, một nhóm thuyền nhân trong trại hợp tác với Hội đồng Giáo xứ đã nhóm họp để thảo luận và đề ra những biện pháp để giải quyết vấn đề như theo ước muốn của Ngài.

Và chỉ hai tuần sau, một Trung tâm Nhà Trẻ Không Thân Nhân đã được thành hình với tiền túi của Linh mục Joe Devlin. Một khu lô lều được sửa chữa lại khang trang, có bếp, có giếng bơm, có chỗ ăn ngủ kể cả một phỏng học rộng rãi, sạch sẽ. Hoạt động của Trung tâm này nhắm vào những mục tiêu cụ thể như sau :

– Nuôi ăn các em hằng ngày với khẩu phần gia tăng đầy đủ bổ dưỡng do ngân quỹ của cha Joe đài thọ.

– Dạy các em một số giờ văn hoá như lịch sử, địa dư VN, tập vẽ, học hát, học Việt ngữ và Anh ngữ.

– Huớng dẫn các em trong các sinh hoạt giải trí, trò chơi, thể dục thể thao.

– Giới thiệu các em tới các trung Tâm Thiện nguyện , giúp các em theo dõi hồ sơ giấy tờ để xin các Hội bảo trợ các em đi định cư.

Hôm làm lễ khai mạc trung tâm, có tới 60 trẻ em không thân nhân được thu nhận. Cho tới nay (tháng 6-1980), Trung tâm vẫn sinh hoạt đều hòa, đem lại cho các em rất nhiều an ủi cả về vật chất lẫn tinh thần trong hoàn cảnh các em bơ vơ không nơi nương tựa và trong thời gian các em chờ đợi đi định cư.

Trên đây mới chỉ là một trong những công trình mà Linh mục Joe đã thực hiện cho thuyền nhân trong trại này, xuất phát từ một tấm lòng nhân ái, cao cả và một sự cảm thông đến tận cùng về những khổ đau mà dân tỵ nạn đã phải chịu đựng.

Trên áo mặc của ngài luôn luôn có ghi hai chữ SOUTH VIETNAM như đã nói lên rằng miền Nam luôn luôn gắn bó trong trái tim của Ngài. Chính vì sự tận tụy với dân tỵ nạn qua những sự trợ giúp mau chóng và hữu hiệu của Ngài mà thuyền nhân trong trại bất kể là theo tôn giáo nào nều đã tôn vinh Ngài như một Sứ giả của tình thương. Ngài đi tới đâu là lũ con nít cũng ùa đi theo. Đứa níu áo, đứa cầm tay. Chúng đã đến với Ngài bằng tất cả tâm hồn ngây thơ và chân thật của chúng.

 

Nhiều cô gái nạn nhân trên biển, sau những tháng ngày chờ đợi, lúc lên đường đi định cư, đã cầm tay Ngài áp lên khuôn mặt của họ và để cho những giọt nước mắt cứ chẩy chan hoà trên bàn tay của Ngài, những giọt nuớc mắt của những tâm hồn xúc động đến tận cùng vì lòng biết ơn sâu xa đối với những gì mà Ngài đã làm cho họ nhưng họ không thể diễn tả được hết bằng lời.

Nhiều nguời khi cộng tác với Ngài trong các dịch vụ xã hội, lúc có tên lên đuờng đi định cư đã khóc xin Ngài can thiệp để được ở lại phụ với Ngài trong các công tác thêm một thời gian nữa.

Nhưng không bao giờ Ngài chấp thuận cho ai đuợc ở thêm lại. Ngài nói

“ Phải rời khỏi nơi đây càng sớm càng tốt !”

Rồi Ngài cười vui vẻ:

“ Phải đi cho hết thì tôi mới rời khỏi đây được chứ !’

Đó là lòng tự nguyện của Ngài. Ngài muốn ở lại cho đến khi không còn người nào trong trại. Mỗi năm, Ngài phải xin gia hạn cư trú trên đất Thái một lần. Nếu ở VN không có gì thay đổi thì những năm cuối cùng của cuộc đời Ngài, hẳn Ngài vẫn còn gắn bó với thuyền nhân tỵ nạn ở đây.

Chúng tôi vẫn thuờng nói: trái tim của Ngài hừng hực lửa. Ngọn lửa soi sáng cho chính chúng tôi, dạy cho chúng tôi những bài học về tình yêu thương cao cả. Trong các bài giảng của Ngài trên nhà thờ, bao giờ Ngài cũng có một dụng ý sâu xa, đó là phá vỡ cái mặc cảm tự ti của nhiều nguời tỵ nạn. Ngài đã nhắc đi nhắc lại trong hầu hết các buổi rao giảng những lời như sau :

“Chính chúng tôi, những nguời ngoại quốc, phải học tinh thần dũng cảm và sự hy sinh vô bờ bến của các anh chị em. Trong lịch sử của nhân loại, không có một trường hợp nào mà một dân tộc lại phải đối phó với nhiều hiểm nguy đến như vậy trên biển cả để đánh đổi lấy một đời sống tự do như dân tộc của anh chị em . . .” .

 

NHẬT TIẾN
(Bút ký viết từ Songkhla – 1980)
https://nhavannhattien.wordpress.com/1vai-trang-bi-su-linh-muc-joe-devlin-su-gia-cua-tinh-thuong/

PHỤ CHÚ :
Năm 1990, LM Joe Devlin hồi hưu và cư ngụ tại Los Gatos, thuộc miền Bắc California. Đã có hàng trăm đồng hương VN sống quanh đó, vốn là thuyền nhân và đã được Ngài trợ giúp, nghe được tin về Ngài đã kéo nhau tới thăm hỏi, mừng tủi và ôn lại những gì mà Ngài đã thực hiện ở trại tỵ nạn.

Ngài mất vì bệnh ung thư và nghẽn động mạch vào ngày 23 tháng 2 năm 1998, trước sự thương tiếc của thân nhân Ngài gồm một em gái và ba người em trai, trong số đó có L.M Raymond Devlin cũng cư ngụ ở Los Gatos.

Nhiệm vụ của Ngài được giao phó trước khi Ngài mất là chủ trì Thánh lễ cho các giáo dân VN và Phi Luật Tân tại nhà thờ Nữ Vương Hoà Bình (Our Lady of Peace Church) ở Santa Clara.

Tuy Ngài đã được yên nghỉ đời đời nơi cõi vĩnh hằng, nhưng hình ảnh của Ngài, tấm lòng cao cả vô biên của Ngài mãi mãi thuyền nhân VN sẽ không bao giờ quên.

Related Articles

Gia Đình là Tất Cả

Gia Đình là Tất Cả

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền miền Nam Việt Nam sụp đổ và Sài Gòn rơi vào tay quân đội miền Bắc Việt Nam. Người người giành giật nhau để đi khỏi nơi đó. Cả thế giới chứng kiến trên truyền hình cảnh tượng thảm thiết và buồn bã…

Đọc thêm
Đảo Ruồi

Đảo Ruồi

Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi trên hòn đảo hoang dã này, tôi đã liệm người chết và chứng kiến sự chào đời của một đứa trẻ. Tôi từ giã tuổi thơ ở tuổi mười sáu và vội vã trưởng thành để thay thế mẹ tôi bảo vệ và lo cho…

Đọc thêm
Trại Giam Trên Biển

Trại Giam Trên Biển

Đầu tháng Hai năm 1979, các nhân viên của Trung Tâm Kiểm Soát Tị Nạn, Sở Cảnh Sát, và Sở Di Trú Hồng Kông đã thở phào nhẹ nhõm sau câu chuyện dài mỏi mệt với con tàu Huy Phong. Thân xác gỉ sét của chiếc tàu khổng lồ này đã bỏ neo ngoài khơi Vịnh Hồng Kông vào tháng 12 năm 1978 với 3,318 người tị nạn ra đi tìm tự do từ quê hương điêu linh của họ…

Đọc thêm
Tuổi Thơ và Hạnh Phúc

Tuổi Thơ và Hạnh Phúc

Tôi đã hết sức thích thú khoảng thời gian của mình ở trại tỵ nạn Indonesia. Lúc đó tôi mười hai tuổi và tôi chẳng có chút bận tâm nào về những chuyện bên ngoài. Mỗi ngày như vậy trong mười tháng trời, tôi chỉ chực chờ thức dậy vào buổi sáng, đi bộ dọc theo bãi biển dài, thu nhặt những vỏ sò và đuổi theo những con ốc mượn hồn…

Đọc thêm
Lòng Từ Bi Cũng Rã Rời

Lòng Từ Bi Cũng Rã Rời

Tác giả: Talbot Bashall Dịch giả: Trinh NguyễnLúc chín giờ mười lăm phút sáng ngày thứ tư 18 tháng 4 năm 1979, tôi được triệu tập đến văn phòng Bộ Trưởng An Ninh (Government’s Secretary of Security) của Chính Phủ Hồng Kông để đưa ra một bản báo cáo vắn tắt về tình...

Đọc thêm
Đội Tuyển Việt Nam Thắng Đội Tuyển Philippines 5-0

Đội Tuyển Việt Nam Thắng Đội Tuyển Philippines 5-0

Sở dĩ chiều nay có lệnh xả trại vì có trận túc cầu giao hữu giữa đội tuyển trại tị nạn Việt Nam và đội tuyển trường trung học Philippines Puerto Princesa City. Tin tức xả trại loan truyền thật nhanh làm hầu hết đồng bào tị nạn kéo nhau đi phố luôn tiện xem thi đấu túc cầu. Đã lâu lắm mới thấy bầu không khí vui vẻ, tưng bừng, nhộn nhịp như thế trong trại tị nạn…

Đọc thêm
Nhớ Về Trại Tỵ Nạn Galang

Nhớ Về Trại Tỵ Nạn Galang

Cùng với hơn ba trăm người được chuyển tới từ đảo Kuku trên chiếc tầu Tegu Mulia, tôi chạy vội vào “trung tâm tiếp cư” của Cao Uỷ là một căn nhà trống ở bến tàu Galang để làm thủ tục nhập trại. Tôi đã đặt chân tới bến bờ Tự Do sau gần một tuần lênh đênh trên biển cả và hơn một tháng đợi chờ ở Singkawang, rồi Kalimatan Barat trước khi được chuyển tới đảo Kuku…

Đọc thêm

Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Tác giả: Lê Như Đức

Sàigòn, vào những năm 1977, 78, nếu có ai lỡ lời nói hai chữ vượt biên thì mọi người đều e dè, sợ sệt. Chỉ cần lỡ lời vài ba câu có dính líu đến hai chữ vượt biên là có thể cải tạo mút mùa. Vậy mà y lại có cái biệt danh thật là ngộ nghĩnh và hết sức ngang tàng: Công tử vượt biên.

Tôi biết y rất rành, rành hơn bất cứ người bạn thân thiết nào của y, là vì một lý do rất đơn giản. Nhà tôi là chỗ trú chân đầu tiên của y mỗi lần vựơt biên thất bại, trốn về Sàigòn chờ móc nối chuyến kế. Mỗi lần như vậy, nhiệm vụ của tôi là đạp xe tới nhà y báo cho gia đình chuyến đi lại thất bại, cần thêm tiền chi tiêu và không quên nhắn thêm câu: “ba má, tìm cho con mối khác”.

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất. Người bạn mà có lẽ khó kiếm được trong lúc sống dưới chế độ mà “cái cột đèn nếu có chân nó cũng vượt biên”. Tôi không biết được tình bạn ngày xưa đối xử giữa Bá-Nha và Tử-Kỳ như thế nào. Riêng tôi, lúc nào khi nghĩ tới y tôi đều nhủ thầm. Một trong những cái may mắn nhất trong đời tôi là được quen y. Tôi gặp y vào năm cuối cùng của trung học, trường Nguyễn Bá Tòng, Gia-định, lớp 12C1.

Tôi còn nhớ ngày đầu tiên gặp y trong sân trường Nguyễn Bá Tòng. Y là học sinh duy nhất chuyển từ trường tư Lasan Taberd tới. Chúng tôi thì ngược lại, phần lớn chuyển từ trường công Hồ Ngọc Cẩn qua. Sáu chúng tôi, băng con nhà nghèo hiếu học, đang đứng chơi trước cửa lớp, thì thấy y. Y tuy tới một mình nhưng rất là tự nhiên và tự tin. Trong khi đó băng chúng tôi thì lại e dè, ngại ngùng khi đối mặt. Có lẽ là vì tại Tường, một người bạn trong đám chúng tôi khi thấy y, nói nhỏ:

“Cái thằng đó con trường Tây. Ông già nó giầu có tiếng trong xóm tao đó. Chị tao ngày xưa làm thợ dệt cho nhà nó. Nó con út, số bọc điều. Giầu tiền xài không hết. Tao nghe nói nhà nó bị kiểm kê đến hai ba lượt rồi. Vậy mà nó vẫn phây phây như thường”.

Minh, người học sinh giỏi nhất trong đám tôi nhìn Tường hỏi:

“Thế nó học cừ không?”

“Tao không biết. Nhưng mà mấy thằng Tây con chắc chẳng học hành gì đâu. Tối ngày đi chọc gái rồi mút xúc-cù-là.”

Tôi nhìn y từ trên xuống dưới để cố tìm xem có chất xúc-cù-là trong người y như Tường nói không. Cảm tưởng đầu tiên của tôi về y là giữa hai chúng tôi là hai thái cực. Y dáng dong dỏng cao, mái tóc bồng bềnh, quăn tự nhiên. So với chiều cao của người Việt Nam, thì y bỏ xa. Tôi thì ngược lại. Bạn bè thường gọi là “Lùn Mã tử”. Tóc tôi lại thưa, loại rễ tre, xỉa thẳng đứng lên trời. Y đẻ trong gia đình giầu có, nhà tôi thì lại thiếu ăn hàng ngày. Tôi con cả, y con út. Có lẽ chúng tôi chỉ có một điều giống nhau. Học tầm thường, chả có gì đặc biệt. Tôi nhủ thầm như vậy trước khi bước vào lớp học đầu tiên của niên khóa 1978-79.

Không những tôi lầm, mà cả Tường cũng lầm luôn. Sự học vấn và kiến thức của y làm ngạc nhiên không những chúng tôi mà cả thầy chủ nhiệm Vật Lý Nguyễn văn Lành. Tôi còn nhớ thầy có nói: “Em rất có khiếu về Vật lý. Sau này có cơ hội nhớ theo ngành này. Em nhé”. Chỉ trong hai tuần lễ học, bọn chúng tôi phần lớn chuyển từ Hồ Ngọc Cẩn qua, đã phải bầu y nắm một chức vụ quan trọng nhất trong lớp, đó là trưởng ban học tập.

Sở dĩ chức này quan trọng là vì trưởng lớp do chi đoàn chỉ định, trưởng ban học tập do học sinh bầu. Trưởng ban học tập phải là tay cự phách. Nó đòi hỏi không những thầy cô tin yêu mà anh em nể phục. Trưởng lớp phải là chi đoàn hay cảm tình đoàn. Trưởng ban học tập không cần nhưng phải là tay chiến, dám đối mặt với cả thầy cô lẫn chi đoàn. Y không những không chi đoàn mà còn lại là thành phần chế độ bất dung. Tư bản mại sản.

Có lẽ y chiếm được hết cảm tình của lớp chúng tôi qua cách đối xử đặc biệt đầu tiên với cô Hóa-Học Nguyễn thị Hoàng-Hoa, phó chủ nhiệm lớp. Sau một tuần lễ học, cô khảo bài bốn học sinh trong lớp. Tất cả đều không thuộc bài. Cô tức giận đỏ mặt, hét ầm ầm. Cả lớp im lặng. Y bỗng nhiên đưa tay lên xin phát biểu. Cô gật đầu. Y nói:

“Thưa cô, chúng em không thuộc bài thật là không đúng. Nhưng thái độ của cô đối xử với chúng em cũng không được hoàn toàn lắm”.

Cả bọn chúng tôi đều trố mắt nhìn y như một con quái vật. Cô nổi tiếng là dữ nhất trường. Thầy giám hiệu cũng phải kiêng. Cô đẹp, giỏi, hơi lớn tuổi, chưa lập gia đình nên… chẳng sợ ai. Tôi nhớ mặt cô đang từ đỏ chuyển sang tái xanh. Cô vừa nói vừa thở:

“Em nói rõ tôi nghe chỗ nào tôi đối xử không đúng””

Y ung dung trả lời:

“Chúng em không thuộc bài, cô la thì đúng nhưng không vì vậy mà cô tức giận, nhăn nhó. Cô sẽ già lẹ, đau tim, chết sớm. Chúng em không thuộc bài, cô có quyền la nhưng không có quyền tự hành hạ thân thể mình như vậy.”

Cô nhìn y một lúc rồi không nhịn được phải phì cười. Cả lớp chúng tôi phá lên cười theo. Đời cô từ đó cũng thay đổi nhiều vì học được một nhân sinh quan mới từ y.

Y học giỏi không chỉ một vài môn mà đặc biệt ở tất cả các môn học. Từ Toán, Lý, Hóa, cho đến Luận văn, Anh văn, Sinh vật, và cả… Chính trị nữa. Thầy Khải tập kết, chuyên dậy môn Chính Trị học, có lần ngạc nhiên hỏi: “Kiến thức em về Bác thật là uyên bác. Có nhiều chuyện về Bác không hiểu em đọc từ đâu mà thầy cũng chưa từng nghe tới bao giờ”.

Sau này, Tường có kể tôi nghe y nói y lấy từ những chuyện danh nhân và lãnh tụ nổi tiếng trên thế giới rồi cứ việc sửa George Washington, Charles De Gaule thành… Giặc Hồ.

Không mời mà y tự nhiên coi như đã nhập vào băng chúng tôi. Không những thế mà thái độ y như đứng đầu băng chỉ huy anh em. Minh ức lắm. Vì y bị giáng chức, xuống thứ hai. Minh có biệt danh là Đại Tướng vì tên họ là Dương văn Minh. Một trong những Đại Tướng có ảnh hưởng rất lớn đến sự sụp đổ của miền Nam Việt-nam. Phạm Tất Đồng tự Thủ Tướng đứng thứ ba. Kế tới là Tường Kiếm Hiệp, Khánh Khổ, Sáu Luận và tôi “Lùn Mã Tử”.

Chúng tôi thường gọi y là Công Tử. Sau vài lần vượt biên hụt, đổi thành Công Tử Vượt Biên. Biệt danh của Sáu Luận sau bị Công Tử đổi thành Luận Bò. Lần đầu nghe, tôi thích lắm vì nghĩ Công Tử giống tôi, cho sức học của tôi hơn nó. Công Tử giải thích: “Không đâu, nó vẫn hơn mày, nhưng tại nó cứ hay cãi bậy với tao. Nó biết sai vẫn cãi cối. Nên là con bò rừng.”

Luận Bò hình như rất thích cái biệt danh này hơn. Được có tiếng hay tranh cãi với Công Tử là một vinh hạnh. Tôi buồn bã trở lại vị thứ bảy của mình. Tuy đứng cuối trong nhóm nhưng vẫn là thứ bảy của lớp. Tôi vẫn đứng trên nhiều người lắm, trên cả thằng chi đoàn trưởng lớp. Công Tử, dĩ nhiên đứng đầu lớp.

Một lần Tường Kiếm Hiệp khám phá ra trường Lê Văn Duyệt có một cô học sinh rất mi nhon, hay đạp xe ngang qua trường tôi đi học. Hôm đó cả bọn ở lại trễ chờ. Cô bé tuyệt vời, nhỏ nhắn, xinh đẹp thật vừa xứng với kích thước… của tôi.

Tôi đang ngây ngất ngắm thì bỗng Công Tử phán: “Con nhỏ này, tưởng gì chứ cho tao ba ngày là tao sẽ ẵm em đi học ngay.” Cả bọn nhao lên, chửi bới um sùm. Công Tử nói: “Tụi bay dám cá không, nếu tao làm được thì từ đây sẽ là đại ca nhóm. Còn không, bao tụi mày một chầu. Đi đâu ăn cũng được.” Chúng tôi đồng ý.

Ba ngày sau, Công Tử đạp xe chở nàng ngang qua trường chúng tôi. Tôi nhìn nàng ôm eo ếch của Công Tử thật tự nhiên và tình tứ. Phải chi trong đời tôi được một lần đạp xe chở nàng đi học nhỉ” Từ đó tất cả đều phục tùng tuy rằng sau này khám phá ra cô bé là em họ của Công Tử.

Chuyến vượt biên đầu tiên của Công Tử vào cuối tháng mười một năm đó. Chúng tôi được tin, hùn tiền, đãi Công Tử bữa tiệc cuối cùng tại vườn nhà Tường Kiếm Hiệp vào chiều thứ bẩy. Sở dĩ nhà Tường được chọn là vì ở cuối xóm dưới. Chung quanh nhà là ruộng rau muống. chúng tôi tha hồ phóng xú uế tới chế độ mà không sợ sự soi mói của mấy tên công an phường.

Căn nhà Tường nhỏ ba gian, vá víu bằng đủ mọi loại vật liệu kiếm được. Mái nửa lá nửa tôn, thỉnh thoảng chen vài viên ngói mẻ, vách chỗ gạch chỗ đất, có chỗ vá cả bằng miếng các tông bự. Tường sống với ba và chị. Ba Tường và Tường chuyên môn cắt, bó rau muống để chị Tường đem bán ngoài chợ nhỏ. Trước khi mất nước, chị Tường làm thợ dệt cho nhà Công Tử. Ba Tường phải kiêm luôn việc bán rau. Giữa nhà đặt một cái bàn nước cọc cạch, mấy cái ghế xiêu vẹo và hai tấm phản hai bên để ngủ và ngơi. Đặc biệt chung quanh vách nhà là những giá sách với đầy ắp sách… kiếm hiệp. Bố con Tường mê đọc chuyện kiếm hiệp và… cắt rau muống. Đặc biệt dù nghèo cũng không muớn, mà chỉ mua chuyện về đóng thành sách, trưng khắp nhà.

Hôm đó chúng tôi đãi Công Tử bằng một con gà luộc, một đĩa dồi chó và ba chai bia quốc doanh. Thủ Tướng nói phải cho Công Tử ăn món quê hương để suốt đời nhớ…Việt cộng.

Công Tử ở lại nhà Tường mãi tới đêm khuya để nói chuyện với ba Tường. Tôi tưởng họ đang bàn chuyện đất nước hoặc kinh tế thế giới. Sau nghe mới biết họ đang nói chuyện… kiếm hiệp.

Tối chủ nhật hôm sau, Công Tử đáp chuyến xe lửa đi Nha-Trang rồi xuống ghe ra khơi. Ngày thứ hai kế là ngày dài nhất của bọn chúng tôi. Ngồi nhìn chỗ trống của Công Tử trong lớp, bọn chúng tôi lúc bồi hồi, lúc phập phồng, lúc lo lắng. Chúng tôi phải báo cáo láo với thầy Lành là Công Tử bị ốm nặng.

Qua sáng thứ năm, Công Tử lù lù bước vào lớp, cả bọn nửa buồn nửa vui. Buồn vì Công Tử đi chưa được, vui vì lại gặp được người mình muốn.

Giờ ra chơi, cả bọn bu lại hỏi. Công Tử kể:

“Tao xuống ghe nhỏ để ra ghe lớn. Đợi tới gần sáng chả thấy ghe mẹ gì mới biết bị lừa, nên về thăm tụi mày lại.”

Tháng sau, Công Tử lại từ giã chúng tôi để đi Phan-Thiết. Mặc dù tài chánh eo hẹp, chúng tôi cũng cố gắng tổ chức lại một bữa tiệc tiễn tại vườn nhà Tường. Lần này thiếu món dồi vì nghe nói thịt chó ăn xui.

Hình như thịt gà cũng xui nên Công Tử lại trở về đi học lại. Hai lần sau đó, chúng tôi chỉ đãi uống chứ không ăn. Khánh Khổ than với tôi: “Khổ quá, Công Tử chưa tới Mỹ thì mình đã phải khai phá sản”. Lúc nào y cũng có thể than khổ.

Lần thứ năm Công Tử đi ở Vũng-Tầu thì bị bắt và đưa vào Bình-Ba cải tạo. Chúng tôi không thể giấu được trường mãi. Lúc đó thầy trò trong trường mới biết tới một nhân vật có biệt danh “Công Tử Vượt Biên”.

Chi đoàn họp liên tục, phê bình, kiểm điểm sáng tối. Bọn chúng tôi thủ khẩu như bình. Huyền thoại về Công Tử được mọi người mọi lớp truyền tụng hơn cả huyền thoại về… Bác.

Mỹ-Ngọc, hoa khôi của trường tuyên bố sẵn sàng ra đi với Công Tử bất cứ lúc nào dù là đi… kinh tế mới. Bích-Huyền, Bích-Ca, hoa hậu song sinh đều đồng ý nâng một khăn, sửa một áo nếu Công Tử có… sức. Thầy chủ nhiệm bị giám hiệu gọi lên khiển trách vì để Công Tử nghỉ ốm nhiều mà không báo cáo. Cô Hồng-Hoa thỉnh thoảng trong lúc giảng bài đi xuống ngồi vào chỗ trống của Công Tử, thương nhớ về một người học trò ưu tú của mình.

Bốn tháng sau, bố mẹ Công Tử tìm được mối chạy năm cây vàng để công an thị xã Vũng-Tầu lén chở Công Tử về Sàigòn.

Sợ phường khóm gây rắc rối cho nhà mình, Công Tử tới nhà tôi trú ngụ vì bố tôi là tổ trưởng tổ dân phố có thể biết trước ngày nào phường khóm tới khám nhà.

Công Tử, tôi và đứa em kế chia nhau căn gác lửng cuối nhà. Căn gác nhỏ chỉ kê vừa hai cái bàn học và trải cái chiếu gai. Vậy mà Công Tử ở đó hơn nửa năm.

Trong năm đó Công Tử vượt biên hụt hai lần nữa. Lần sau nhờ có kinh nghiệm nên không bị tó. Tôi trở thành người đưa tin giữa Công Tử và gia đình. Mỗi lần sang nhà Công Tử nhắn tin, tôi đều ghé lại nhà Luận Bò để cho tin tới mọi người trong nhóm.

Đối diện nhà Luận có một bông hoa sống mà Luận theo đuổi từ hồi mặt mới mọc mụn. Luận thường tự hào gọi nàng là “Thiên hạ đệ nhất Niên”.

Niên thường ngồi cạnh cửa sổ nhà để xếp hàng nhà Niên dệt mướn. Thỉnh thoảng cuồng chân, nàng đi dạo vài vòng trước nhà. Lúc nào Niên cũng mặc áo vàng in bông cúc nổi và quần xa tanh bóng đen. Tôi thắc mắc, Luận thất tình trả lời: “Hỏi Công Tử đó. Tao tốn cả đời theo đuổi không thành. Công Tử chỉ nhập nhóm ca với em mấy ngày là em mê tít. Mẹ kiếp, giọng Công Tử Bắc kỳ the thé vậy mà mắt em cứ lim dim, phê giọng trầm và ấm”.

Đó là lần đầu tiên tôi mới hiểu tại sao Luận hay so đo, ghen tương với Công Tử.

Niên dáng thanh và cao. Nếu mang guốc cao gót, tôi chắc Luận chỉ đứng tới tai Niên. Công Tử đứng với Niên thật là xứng đôi, như Rồng với Phượng. Niên đứng với Luận như Phượng với… Ngưu. Tôi chắc chính Luận cũng biết vậy. Khi tôi về là Luận vội chạy qua nhà Niên để cho tin và cũng để… chiêm người đẹp.

Chiều hôm ấy tôi cố tình nói chuyện về Luận rồi đưa đẩy tới Niên. Tôi có hỏi sao Công Tử không tìm cách liên lạc với Niên. Công Tử trả lời:

“Mày nghĩ tao đang nghỉ hè hay sao mà thăm với viếng. Việt Cộng biết chuyện giữa tao và Niên. Tao chắc nó bám Niên kỹ lắm. Nếu tao gặp Niên là sẽ gặp… Bác. Cuộc đời có những cái mình phải hiểu để sống. Số tao sinh ra là để vượt biên, đi Mỹ học, số Niên là ở đây hát… xây dựng chủ nghĩa. Hai đường đi hai nẻo, phải dứt khoát thì mới làm được cái mình muốn”.

Rồi Công Tử kể tôi nghe chuyện tình với Niên. Câu chuyện tình đầy tính chất… xã hội chủ nghĩa.

Mùa hè năm trước, tất cả các học sinh trong phường phải đăng ký sinh hoạt. Như thường lệ Công Tử ra trình diện trễ hai ngày. Tên ủy viên thanh niên gai gai, cho Công Tử đứng chờ chơi. Đang lúc đó thì Niên tới phàn nàn là tổ ca của nàng thiếu nam, chỉ toàn mấy em gái choai choai mười hai mười ba thôi. Công Tử kể: “Tên ủy viên nghe xong, sực nhớ tới tao, nó đưa hàm răng vàng ố, ám khói thuốc lào ra cười hô hố chỉ tao nói: “Đồng chí xung phong vô tổ ca ngồi kia kìa”. Tao đứng dậy tính phản đối, thấy Niên quay qua nhìn, tao gật đầu ngay.”

Cũng như mọi chàng trai đất Việt, lần đầu tiên gặp người đẹp, Công Tử bỡ ngỡ nói một câu hết sức… lãng mạn cách mạng. “Dân Việt nam ăn toàn bo bo không, sao lại có người như Niên, xinh đẹp như vậy”. Niên đỏ mặt, đổi đề tài, hỏi nhà Công Tử ở chỗ nào trong phường để nàng biết tới gọi đi họp. Công Tử kể tiếp: “Tao chỉ nhà, Niên không tin nói nhà tao chỉ đến bà chị kế tao là hết. Tao nói ông già anh mới nhận anh làm con nuôi tối qua.”

Hôm sau Niên đi hỏi dò trong xóm mới biết Công Tử là con út, ít khi ra đường nên phần lớn mọi người không biết tới. Gặp Công Tử, Niên hỏi: “Anh làm gì mà tối ngày cứ ru rú ở trong nhà không”” Công Tử đáp: “Tại chưa gặp Niên nên không muốn, bây giờ thì lúc nào cũng nằm ngoài đường.”

Từ đó phường 7, quận Phú-Nhuận có chuyện tình để mọi người kháo cho qua những tháng ngày vô vị dưới chế độ ba khoan. Khoan sống, khoan hưởng và khoan yêu. Họ nhìn Công Tử và Niên để ước sao cho cuộc tình được êm đẹp và thành tựu. Hình như Công Tử và Niên cũng thấy. Họ lúc nào cũng quyến luyến và ước mơ.

Mùa hè chấm dứt, chị phụ trách sinh hoạt phường, tổ ca, Quách thị Cẩm-Niên đặt bút phê vào sổ sinh hoạt của Công Tử: tiên tiến vượt chỉ tiêu. Tên ủy viên thanh niên phường gầm gừ phản đối ngầm.

Một ngày cuối đông năm 1979, Công Tử đưa tiền cho đứa em gái tôi dặn ra chợ Phú-Nhuận mua xôi và thịt vịt. Hôm đó nhà chúng tôi được thưởng thức một món mà mọi người ưa thích. Tôi có linh cảm thật nhiều. Tối hôm đó Công Tử nói: “Bố mẹ tao đóng tiền bán chính thức xong rồi. Ngày mai em họ tao tới đón tao xuống Rạch-Giá.”

Công Tử đưa tôi thẻ căn cước mới có tên tầu là Lý Phu Trình. Tôi nói: “Công Tử Vượt Biên giờ trở thành Cái Nị Dượt Piên”. Chúng tôi cười nói nhiều tới khuya.

Ba tháng sau, không thấy tin tức gì của Công Tử, tôi ghé qua nhà hỏi. Bà mẹ Bắc-Kỳ, thật Việt Nam, thấy tôi ôm mừng khóc “nó đã tới được Mã Lai rồi con ạ.” Tôi từ giã vội để chạy qua nhà Luận báo tin.

Mọi lần thì khác, nhưng lần này vừa thấy chiếc xe đạp Mỹ mà Công Tử để lại cho tôi đậu trước nhà Luận, Niên có linh cảm, chạy vội băng qua đường.

Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt Niên. Niên có gương mặt trái xoan. Cặp mắt không to không nhỏ, rất đi đôi với khuôn mặt. Mũi Niên hơi cao, có sống, không tẹt như mũi người Việt nam. Mái tóc dài ngang lưng, không dày không thưa nhưng đen nhánh như hai hàng lông mi của nàng. Da Niên trắng tựa như người sinh đẻ ở Gia-Nã-Đại. Mái tóc đen dài, gương mặt trái xoan, làn da trắng, chiếc áo vàng in hình bông cúc nổi, cái quần xa tanh bóng đen, những thứ ấy tương xứng, đối chọi làm Niên đã đẹp càng đẹp thêm. Không chỉ đẹp, dáng Niên cao cao trông sang và quyền quý. Phải nói Niên là một kỳ công tuyệt mỹ của Tạo hóa. Bây giờ tôi mới hiểu hết câu nói đầu tiên, ngớ ngẩn của Công Tử khi gặp Niên. “Dân Việt nam ăn toàn bo bo không, sao lại có người như Niên, xinh đẹp như vậy.”

Niên bước vào nhà Luận, căn nhà tự nhiên sáng hẳn ra. Không hiểu từ mái tóc Niên hay từ thân thể Niên, cũng có thể từ sự tưởng tượng của tôi, tôi như thấy một mùi thơm ngọt dịu thoảng qua. Niên không để ý gì cả, chỉ hỏi vội: “Ảnh có tin gì chưa anh”” Tôi gật đầu đáp: “Tới Mã Lai rồi”. Chưa đầy một phút sau, hai dòng nước mắt đã chảy dài trên gương mặt xinh đẹp của Niên. Tôi không cầm được nước mắt. Luận Bò cũng khóc. Chúng tôi nhìn nhau khóc thật dễ dàng.

Chín tháng sau tôi mới nhận được lá thư đầu tiên của Công Tử gửi từ một nơi có cái tên lạ hoắc của tiểu bang Texas. College Station.

Thủ Tướng gật gù giải thích: “Thì đúng rồi, Công Tử phải ở chỗ những người giỏi của nước Mỹ. College Station là chỗ của những người ít nhất phải có bằng Đại học ở.” Chúng tôi đều nhất trí.

Tôi mang thư qua nhà Công Tử khoe. Hai ông bà nhìn tôi một lúc rồi khẽ nói:

“Hai bác có chuyện muốn nói với cháu. Trước khi nó đi, hai bác có đóng thêm một chỗ, phòng nếu đi không xong sẽ có mối khác cho nó. Lúc nó đi có nói nếu trót lọt thì để dành cho cháu để cám ơn gia đình cháu đã giúp nó. Tiền bác đã đóng rồi, lấy về cũng không được. Cháu về thưa với bố mẹ, rồi sang cho hai bác hay.”

Trên đường về, tôi bàng hoàng như người bị say sóng. Bố tôi nghe xong nói: “Trời Phật thương gia đình mình rồi con ơi. Cơ hội ngàn vàng con đừng bỏ. Con phải đi để cứu các em con và cứu cả bố mẹ. Con đi bố chỉ mất chức… tổ trưởng là cùng. Chức cái quái gì, toàn là làm không công cho tụi nó không. Đã vậy chúng con phê bình bố là không quản lý tốt.”

Hai tuần sau, tầu tôi cập bến Mã Lai. Tôi cũng được chuyển qua đảo Pulau Bidong như Công Tử.

Vì thuộc diện hốt rác nên tôi ở đảo gần hai năm. Sau khi từ chối cả Úc, Pháp, Ý và Thụy Sĩ, tôi mới được Mỹ hốt. Tôi tới Houston vào cuối đông năm 82. Trời năm đó lạnh và u ám.

Công Tử ra đón tôi ở phi trường. Vẫn phong thái và kiểu nói của năm xưa, tôi thấy trời đất chuyển ấm và sáng dần.

“Lùn Mã Tử, tao trốn mày gần nửa vòng trái đất, vậy mà mày cũng bám theo. Làm sao tao có thể dứt mày được đây””

Tôi trả lời:

“Khánh Khổ nói số mày đẻ bọc điều, sinh ra để sống trong nhung lụa. Số tao với nó là số khổ, do đó tao phải bám sát mày. Chỉ cần một tí cái bọc điều của mày, là hưởng suốt đời không hết.”

Đúng như Đại Tướng đoán trước, chương trình học bốn năm của Đại học Mỹ, Công Tử chỉ tốn ba năm hơn. Tôi vào trường được hơn một năm, Công Tử tốt nghiệp kỹ sư cơ khí và chuyển lên Fort Worth làm cho một hãng máy bay quốc phòng nổi tiếng.

Ngày tôi ra trường, Công Tử lái xe về mừng. Gặp tôi, Công Tử thành thật:

“Tao tính mua tặng mày một món quà thật lớn. Nhưng tuần sau tao xong Cao học, mày lại phải trả nợ, mua đồ mừng tao. Do đó đổi ý không mua gì cả. Mày mới ra trường chưa có nhiều tiền, chơi cái trò tư bản này không xong đâu.”

Tôi có hỏi Công Tử có tiếp tục học lên Tiến Sĩ không” Công Tử trả lời:

“Phải ngưng một thời gian, ba má tao nói ngưng học, đi lấy vợ học mới… thông ra thêm. Ông bà cũng già rồi, tao tính về thăm một chuyến, tiện thể tính bề gia thất.”

Ngập ngừng một lúc tôi mới nói Công Tử một điều mà tôi đã giấu hơn sáu năm nay:

“Niên đã lấy chồng lâu rồi, chắc giờ con cũng đã lớn.”

Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi thấy mặt Công Tử đổi sắc. Công Tử nhìn tôi một lúc như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi thôi, chỉ quay đi nhìn về một hướng xa xa.

Tôi hiểu Công Tử muốn hỏi gì nên khẽ đáp:

“Luận Bò.”

 

Houston, đầu Đông, năm 2000

Lê Như Đức

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm

Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett
Dịch giả: Thành Đặng

Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan.

Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm nhận được sự khó khăn khi phải vượt qua vùng biển này.

Tôi đã từng trải qua kinh nghiệm này trong vòng hai tuần rưỡi vào tháng Tám và Chín năm 1981, những gì tôi chứng kiến đã để lại dấu ấn mãi mãi trong đời mình.

Với vai trò ký giả của tờ báo The West Australian, tôi được tham gia chuyến hải trình của tàu Cap Anamur. Đây là một con tàu chở hàng thuê mang cờ Tây Đức, lừng danh về việc cứu vớt những người chạy trốn chế độ cộng sản Việt Nam trên những con thuyền mong manh dùng di chuyển trên sông rạch vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.

Cùng tham gia với tôi là nhiếp ảnh gia đồng nghiệp, David Tanner, những tấm ảnh nổi tiếng của anh nằm trong quyển sách quan trọng này. Đây là chuyến đi thứ 24 của con tàu.

Tàu Cap Anamur hoạt động qua một tổ chức từ thiện do bác sĩ, ký giả Ruper Neudeck thành lập, sau khi ông cảm thấy kinh hoàng với những hình ảnh của thuyền nhân Việt Nam trên màn ảnh truyền hình.

Khởi đầu nhóm mang tên Một Con Tàu Cho Việt Nam, nhưng sau đó đổi thành Ủy Hội Bác Sĩ Cấp Cứu. Tổ chức được tài trợ bằng các đóng góp rộng rãi của công chúng Tây Đức. Các bác sĩ và y tá trẻ ở Đức cũng thường xuyên cống hiến thời gian và kỹ năng của họ cho mục tiêu của con tàu.

Trong tài liệu David và tôi thu thập, chúng tôi ghi nhận sự khắc nghiệt của thời tiết mà thuyền nhân phải đương đầu khi trốn khỏi chế độ cộng sản và sự tố cáo, đàn áp sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc với sự sụp đổ của Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Một đêm, khoảng hai trăm cây số về phía nam mũi Cà Mau, con tàu 5300 tấn trở nên nhỏ bé khi vật lộn với cơn bão xoáy, bằng những đợt sóng khổng lồ đập vào mũi tàu, dồn dập đổ lên khoang trước tàu những con nước trắng xóa.

Trích nguồn: THUYỀN NHÂN – Nước Mắt Biển Đông Từ Sau Biến Cố 30/04/1975 – Carina Hoàng

Tôi thấy mừng vì được an toàn trên phòng của thuyền trưởng, nhưng một ý nghĩ làm tôi ớn lạnh suốt toàn thân. Tôi biết rằng thuyền nhân đang lênh đênh ngoài khơi trong bóng đêm, và con tàu yếu ớt của họ không có cơ hội nào để sống sót, nếu họ chưa chìm hẳn.

Không có chút hoài nghi nào về điều này vì ngay trong tuần trước, tàu Cáp Anamur đã vớt được ba trăm thuyền nhân, con số cho thấy rõ là còn có những người khác đang cần cứu vớt.

Tôi rất đau lòng cho những người chúng tôi đã không tìm được trước khi cơn bão tràn tới. Họ sẽ phải thấy khủng khiếp biết chừng nào!

Tôi cũng nhớ lại những gì có thuyền trưởng Rolf Wangnicl đã nói khi chào đón chúng tôi lên tàu, một đêm nóng bức ở cảng Singapore.

Ông dự đoán một cách ân hận rằng, với vai trò phóng viên tin tức, chúng tôi đã đến trái mùa. Ông bảo mùa bão đã bắt đầu trên biển Nam Hải và ít có thuyền nhân chịu ra đi trong mùa này.

Ngay đến viên thuyền trưởng đây kinh nghiệm này – một người nhiệt thành với cá tính mạnh mẽ – cũng đánh giá thấp sự quyết tâm của những kẻ khao khát tìm tự do.

Tuy thế, thời tiết xấu không chỉ là mối hiểm họa duy nhất. Ngay cả khi biển lặng cũng gây hiểm nghèo cho những ai không mang đủ nước uống. Dưới sức nóng gay gắt của mặt trời – điều kiện tiêu biểu cho vùng nhiệt đới – họ có thể mất nước một cách nhanh chóng.

Tệ hơn thế, máy tàu có thể bị hỏng, như nhiều con tàu đã từng bị. Không được cứu vớt, tàu sẽ trôi dạt đến một cái chết từ từ, như đã có thể diễn ra với số phận cùa những người trên một con tàu dài 14 mét, mới nhìn tưởng như không người.

Cho đến lúc tàu Cap Anamur cập sát bên, và chúng tôi có thể nhìn xuống khoang tàu.

Chúng tôi bị choáng khi nhận ra khoang tàu chật cứng với những con người kiệt quệ, đẫm mồ hôi – phần lớn đã quá suy nhược để nhận ra chúng tôi. Những khuôn mặt không còn cảm xúc và trong tư thế tay chân đan vào nhau, họ chỉ nhìn chăm chăm vào chúng tôi.

Tôi đã viết trên báo: ” Chúng tôi như đang nhìn xuống một mồ chôn tập thể ” và chắc chắn điều đó sẽ xảy ra cho 103 người trên tàu, gồm cả 35 trẻ em, nếu chúng tôi đã không tìm thấy họ.

Sau khi được kéo lên tàu theo nhóm năm đến sáu người một, nhiều người đã phải được đưa ra khoang trước của tàu Cap Anamur, nằm dưới một tấm bạt lớn để được hai bác sĩ xem xét và chăm sóc. Những trường hợp nặng nhất được mang ngay xuống bệnh viện của tàu.

Tôi vẫn có thể hình dung một thiếu nữ nằm lặng lẽ lăn qua lăn lại và tự đấm ngực mình. Tôi ngờ rằng ngôn ngữ có thể diễn tả cảm xúc của cô với sự pha trộn của khủng khiếp và giải thoát từ những gì cô đã trải qua. Tôi cũng không quên buổi sáng đầu tiên trong vịnh Thái Lan. Bất thình lình, chúng tôi nghe thuyền trưởng Wangnick gọi chúng tôi lên đài chỉ huy để nhìn thấy một hàng những chấm cùng cỡ trải dài ở chân trời phía trước.

Những “cái chấm” này là thuyền đánh cá của ngư phủ Thái, và chúng là cái hàng rào không thể vượt qua cho bất kỳ tàu thuyền nhân Việt nào muốn đến Mã Lai.

Như lịch sử ghi nhận rõ, nhiều ngư phủ Thái vào thời đó kiếm thêm thu nhập bằng cách biến thành cướp biển, giết chóc và hãm hiếp người Việt.

Bằng cảm nhận, các tàu Thái trước mặt chúng tôi – tất cả vào khoảng 20 mét chiều dài với máy tàu cực mạnh – đang chuẩn bị sẵn để không những đánh bắt cá, mà có lẽ còn chặn bắt các tàu tỵ nạn.

Đến một lúc, chúng tôi bắt gặp năm tàu Thái vây quanh một tàu tỵ nạn Việt dài khoảng tám mét với 92 thuyền nhân gồm cả đàn bà, trẻ em. Khi đó đang ở về phía tây Mũi Cà Mau khoảng một trăm cây số.

Thuyền trưởng Wangnikc bật còi tàu thật lớn, và cho tàu chạy thẳng đến nơi – chúng tôi khám phá ra đã có hai mươi hai phụ nữ và ba mươi ba trẻ em đã bị bắt mang lên các tàu Thái.

Trích nguồn: THUYỀN NHÂN – Nước Mắt Biển Đông Từ Sau Biến Cố 30/04/1975 – Carina Hoàng

Còn lại bốn mươi đàn ông Việt bị bỏ lại trên tàu – máy tàu đã bị phá hỏng và nước đang tràn vào. Tàu Thái đã ném dây xuống và dùng để kéo con tàu theo, như thể chúng muốn che giấu con tàu khỏi tầm nhìn của tầu Đức đang tiến đến.

Sau một thời gian căng thẳng – các tàu Thái bắt đầu lượn vòng quanh Cap Anamur một cách khiêu khích, cuối cùng, bọn Thái phải bằng lòng trả lại những người bị bắt xuống tàu, và đưa họ sang tàu Cap Anamur. Có lẽ chúng nhận ra là các số tàu đăng ký của chúng đã bị lộ, bọn Thái đành phải bỏ cuộc.

Sau khi lên tàu Cap Anamur, các thuyền nhân kể lại họ đã bị cướp hết tiền bạc, nữ trang, ngay cả các trang sức của trẻ em. Nếu tàu Đức không đến kịp, chắc sẽ còn nhiều chuyện tệ hơn đã xảy ra cho phụ nữ.

Tính lại, đã có 695 thuyền nhân được tàu Cap Anamur vớt trong thời gian chúng tôi ở trên tàu. Tất cả được đưa vào một trại tỵ nạn trên đảo Palawan ở Philipines.

Khi họ sắp hàng để rời tàu với hy vọng tràn trề, tôi nhìn thấy một em gái khoảng mười tuổi đang đứng đầu hàng. Cô bé mang theo bàn chải răng và kem do thủy thủ đoàn cấp, cười rạng rỡ, nhưng tôi không khỏi thấy buồn cho cô bé. Vì chắc em chẳng hề hay biết có nhiều người may mắn sống trong các nước dân chủ đã tỏ ra không mấy rộng lượng với thuyền nhân Việt Nam, gọi họ là tỵ nạn kinh tế.

Tôi biết vì thế em có thể phải trải qua một thời gian dài trong trại tỵ nạn sơ sài nằm sát cạnh phi đạo quân sự cũ ồn ào. Tôi tự nghĩ, giá như những kẻ bác bỏ người tỵ nạn đó có thể đứng bên tôi lúc này và nhìn thấy tia hy vọng trên nét cười của cô bé – Họ có thể từ chối em được không?

Trong thực tế, David Taner và tôi tham gia con tàu Cap Anamur sau khi có nhiều báo cáo cho biết các tàu chở dầu và hàng đã làm ngơ trước sự cầu cứu của thuyền nhân Việt Nam. Một số tàu dừng lại để giúp thực phẩm, nước uống cho thuyền nhân, sau đó tiếp tục đi, không cứu vớt họ.

Hiển nhiên là thời biểu chặt chẽ trong kinh doanh gây trở ngại và tốn kém cho việc cứu vớt thuyền nhân, đưa vào cảng gần nhất. Điều này dẫn đến những chuyện đã có thuyền nhân phải ăn thịt người để sống sót.

Tôi cho là các lối nói bừa bãi nguy hiểm về “tỵ nạn kinh tế” đã góp phần vào những hoàn cảnh đau lòng đó, vì nó tạo cho nhiều thuyền trưởng có lý do để ngoảnh mặt làm ngơ, thay vì giúp đỡ.

Tổ chức của bác sĩ Neudeck cho biết đã cứu hơn mười ngàn thuyền nhân Việt Nam, nhiều người trong số này sinh sống tại Đức, nhưng cũng sống trong các nước tự do khác, kể cả Hoa Kỳ.

Đó là một nỗ lực tuyệt vời của tất cả những ai quan tâm.

Norman Aisbett là ký giả hiện đang hồi hưu bán thời gian, thỉnh thoảng vẫn viết về các vấn đề mà ông quan tâm ở Á Châu. Ông và vợ, Genevieve, có hai con trai, một cô con gái và bốn cháu. Thú tiêu khiển của ông là chơi gôn.

Norman Aisbett

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm