Lòng Từ Bi Cũng Rã Rời

Lòng Từ Bi Cũng Rã Rời

Lòng Từ Bi Cũng Rã Rời

Tác giả: Talbot Bashall
Dịch giả: Trinh Nguyễn

Lúc chín giờ mười lăm phút sáng ngày thứ tư 18 tháng 4 năm 1979, tôi được triệu tập đến văn phòng Bộ Trưởng An Ninh (Government’s Secretary of Security) của Chính Phủ Hồng Kông để đưa ra một bản báo cáo vắn tắt về tình hình người tỵ nạn Việt Nam. Thực chất vấn đề là, mọi người hoảng sợ vì con số ngày càng tăng của người tỵ nạn đến từ Việt Nam đã diễn ra đến nơi rồi. Sau đó lý do tôi được triệu tập đã rõ: tôi được bổ nhiệm làm quản trị viên (Controller) cho Trung Tâm Quản trị Người Tỵ Nạn (Refugee Control Centre – RCC) vừa thành lập. Nhiệm vụ phối hợp mọi nỗ lực của Chính Phủ Hồng Kông trong việc giải quyết những con số dự đoán và xây dựng những mối quan hệ hợp lý với tất cả các lãnh sự quán được công nhận, đặc biệt là của Hoa Kỳ, Hà Lan và Tây Đức. Thêm vào đó, tôi đã liên lạc chặt chẽ với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commission for Refugees – UNHCR) và những tổ chức có liên quan, thiện nguyện. Nói cách khác, để đảm bảo có thể công việc càng suôn sẻ càng tốt về vấn đề người tỵ nạn và công văn giấy tờ sau đó đến những quốc gia họ được tái định cư.

Mang trên vai gánh nặng của cơn khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng này chính là ngành Cảnh Sát và Dịch Vụ Xuất Nhập Cảnh (Immigration Service). Hai tổ chức này đã làm việc “vượt qua cả nhiệm vụ” rất nhiều. Chủ nghĩa anh hùng, tính bền bỉ và sự cam kết cao độ không gì sánh kịp trong công việc làm họ xứng đáng nhận được lời khen tặng cao nhất. Tôi hy vọng sự tri ơn này, vì những cống hiến và việc họ đã làm, có thể bằng cách nào đó bù đắp được sự thật rằng lời ngợi khen mà họ xứng đáng được nhận lại chẳng bao giờ được trao tặng.

Khi đó tôi nhớ lại rằng, năm 1947 tôi hai mươi tuổi, trong suốt thời gian đương đầu với tội phạm chiến tranh ở Venice, tôi đã ý thức tôi đang sống trong lịch sử, và trong nhiệm vụ mới này, tôi có cùng thứ cảm nhận đó. Tôi cũng còn nhớ lời tướng Dwight D. Eisenhower, Chỉ Huy của Lực Lượng Đồng Minh ở Châu Âu (Commander of all Allied Forces in Europe) vào cuối Thế Chiến thứ II (rồi sau đó trở thành tổng thống Hoa Kỳ). Khi nhìn thấy các trại tập trung của Đức Quốc Xã ông đã nói: ‘Ghi lại càng nhiều hình ảnh càng tốt, bởi vì một lúc nào đó trong tương lai, sẽ có vài tên “SOB” (Chó đẻ) nói rằng “Chuyện đó chưa từng xảy ra”’. Vậy nên tôi chụp lại rất nhiều hình ảnh, khuyến khích những người khác cũng làm như vậy, và với sự hợp tác đáng kinh ngạc của Cynthia vợ tôi, đã thu thập các hình ảnh cá nhân và chính thức, cả những bài báo và tài liệu có liên quan khác. Tôi có thể dự đoán được sự huỷ diệt theo chiều hướng cộng sản kia sẽ giảm đi sau vài năm và những kẻ kế vị thủ phạm sẽ tuyên bố chuyện như thể ‘chưa bao giờ xảy ra’.

Một phần vì trách nhiệm, mỗi ngày của tôi bắt đầu lúc sáu giờ sáng và có thể kéo dài đến tận tối mịt, phụ thuộc vào việc thuyền cập bến và các vụ khủng hoảng phát triển đến mức nào. Công việc này không hề giống với những điều tôi đã trải qua. Không có một ‘nguyên tắc hành xử đặc biệt’ nào được dùng để giải quyết những sự kiện này một khi chúng diễn ra.

Tôi luôn luôn phải trực ngoài giờ, theo cách nói hiện đại là làm việc 24/7. Quả thật, tôi vừa nhận công tác chưa đầy năm phút mà đã có biết bao nhiêu chuyện chuyện xảy ra. Tôi đã được cấp một cái ‘máy nhận tin’, thiết bị trước thời điện thoại di động, một vật thể đen sì có thể phát ra tiếng ‘bíp’ và chuyển đến thông điệp từ mọi điểm của la bàn cho biết những chuyện như thuyền đến nơi, vô số những cơn khủng hoảng liên quan đến các trại, các vấn đề hành chính và những vấn đề khác. Văn phòng của tôi ban đầu nằm ở trại Victoria Barracks – bây giờ đã bị phá bỏ và thay thế bằng những văn phòng và khách sạn cao tầng – Và tôi được ra lệnh hãy bắt tay vào việc.

Hợp tác với nhiều tổ chức khác nhau cùng lúc cũng không phải là chuyện khó khăn, như thể có một cảm giác lỳ lạ về tình bạn thân thiết tràn ngập cả khung cảnh. Tất cả mọi người cam kết cùng nhau làm dịu đi cái tai ương khủng khiếp này. Mỗi khi có một chiếc thuyền đến, máy nhận tin của tôi sẽ phát ra âm thanh để báo động và tôi sẽ đăng nhập các tin tức và cho chúng ‘lên đường’. Thuyền sẽ được chặn lại và hộ tống đến Bãi Đậu Kiểm Dịch Phía Tây (Western Quarantine Anchorage – WQA). Ở đây họ được kiểm tra sức khỏe và các vấn đề an ninh. Trong lúc ở WQA, những phận người trôi nổi nghèo đói, khốn khổ, hoang mang và hoàn toàn bị thương tổn kia được hỗ trợ dịch vụ y tế cơ bản, được cung cấp thức ăn và nước uống. Bảy ngày sau, họ được kéo đi và được lên bờ ở Bến Cảng Chính Phủ (Government Dockyard). Nơi này có cái ‘cầu cảng’ (landing jetty) với lối đi xuống bị sạt lở rất nghiêm trọng phía sau. Cây cầu cảng cũ kỹ đã đến lúc phải phá đi này, tự thêm vào bề dày lịch sử của nó, khi kiên cường một cách đáng ngưỡng mộ chịu đựng tấn bi kịch đang diễn ra. Để dễ hình dung về sự lớn lao của tấn bi kịch, tôi ghi nhận được vào ngày 12 tháng Bảy năm 1979, nơi này đang có tổng cộng 12.179 người gồm cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em.

Trong nhật ký hàng ngày và những ghi chép của tôi, toà nhà này còn xa lắm mới đạt đến mức lý tưởng. Mái nhà bị rò rỉ và các điều kiện nói chung rất sơ khai, nhưng nó lại là nguồn cứu viện tuyệt vời và là sự mãn nguyện của những người tỵ nạn Việt Nam đến ở đây. Đặt chân lên “đất liền”, được tắm, được thay quần áo và nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan thiện nguyện. Tôi không nghi ngờ gì chuyện những người nghèo khó này có thể nghĩ họ đã lên đến tầng thứ bảy của thiên đường. Thêm vào đó là tâm trạng khuây khoả biết rằng họ sẽ không bị đẩy ra biển trở lại. Vị bộ trưởng An Ninh sau đó tuyên bố ‘Tôi cho rằng việc đẩy ngược một chiếc thuyền đầy ắp người ra biển và buộc họ phải tự tìm một cơ hội cập bến nơi nào khác là hành động không đúng đắn và hủy hoại uy tín của Hồng Kông’.

Tôi tin điều đó là uy tín vĩnh viễn của Hồng Kông khi chính sách này được thông qua, và tôi biết rằng những người ở “tiền tuyến” không có cách làm nào khác hơn. Có thể nói rằng, lượng thuyền đến nơi ngày càng tăng mang đến sự căng thẳng khủng khiếp cho những người làm công việc tìm kiếm và thu xếp chỗ ở vì những nơi hiện có đều đã tới trạng thái bão hoà.

Đây gần như là nghịch lý, nhưng tôi cảm thấy tổng hợp của sự căng thẳng mà chúng tôi đang chịu đựng và sự hợp tác tuyệt vời giữa các tổ chức liên quan là một cách dẫn đến sự suy sụp tinh thần. Có lẽ ví dụ này sẽ mang đến gợi ý để hiểu những gì tôi đang kể: khi tôi liên lạc người phụ nữ trẻ bên bộ Di Trú ‘Lại thêm một khủng hoảng nữa tự nó xuất hiện’, cô trả lời với tôi ‘Đợi nhé, trong khi tôi lên cơn kích động đây’.

Chuyện thiết yếu là mọi người không được để ‘cảm xúc chi phối’: nhưng giá mà chúng tôi làm được như vậy, thì sự suy sụp tinh thần đã không xảy ra. Ngược lại, tất cả chúng tôi đều rơi vào trạng thái ‘xót xa rã rời’, tôi tin vậy. Nhưng sự đau khổ của chúng tôi có là gì đâu so với nỗi đau của những người tỵ nạn. Tôi tha thiết hy vọng rằng kẻ tàn sát vô tâm không bao giờ có dịp tìm đến ai ở bất kỳ đâu lần nữa.

Trong số các trường hợp đặc biệt kinh khủng mà nhật ký tôi ghi lại, có một sự việc nổi bật hẳn. Trên một chiếc thuyền cập bến với chỉ một ít người tỵ nạn, tôi nhìn thấy một thiếu niên mười lăm tuổi bị cột vào cột buồm. Khi được thẩm vấn, cậu bé kể là em sắp đến lượt bị người ta ăn thịt, nhưng đã may mắn thoát khỏi số mệnh. Sau đó tôi biết được em bị cột vào cột buồm vì bọn họ sợ em sẽ nhảy xuống biển thì mất đi nguồn cung cấp thực phẩm.

Đào Văn Cừ (tên của cậu bé) nói rằng vài ngày trước, những người khác có một cuộc thảo luận với nhau và sau đó vây xung quanh em. Họ kéo áo che qua đầu và dùng dây thừng cột chân em lại. Trong khi hai người đàn ông đè em xuống boong tàu, cháu của người thuyền trưởng dùng một cây sắt đánh vào phần đầu em cho đến khi em chảy máu lênh láng. Trong lúc nằm tiếp tục chảy máu, em nghe được một người bảo một người thứ ba cắt cổ họng em. Em đã khóc và cầu xin lòng thương xót. ‘Họ muốn ăn thịt tôi’, em kể ‘và đã nấu sẵn một nồi nước sôi lớn. Tôi chờ họ cắt cổ mình’.

Không ai bước tới trước để giết em và em cứ nằm đó ở mũi tàu. Chiều muộn ngày đó, người bạn đồng hành ốm yếu trẻ tuổi của em chết đi và bị bọn họ ăn thịt, em kể, chuyện này giúp em trì hoãn cái chết. Nhưng hai ngày sau đó, mối đe doạ đã trở lại. Em thoát chết, em nói, chỉ vì tàu của họ đã đến được lãnh thổ Hồng Kông.

 

Bài viết về câu chuyện này sau đó xuất hiện trên tờ New York Times ngày 13 tháng 8 năm 1981, tác giả là Henry Kamm, Thông Tín Viên Ngoại Giao châu Á của báo.

Một cơn khủng hoảng khác chúng tôi phải đối mặt là sự di tản nhanh chóng của các tàu tỵ nạn từ WQA như một dấu hiệu của bão đến được phát ra. Vào những lúc này, ai lại không nghĩ đến rất nhiều người khốn khổ, trên những chiếc thuyền mỏng manh lại quá tải của họ, có thể đang bỏ mạng trong hoàn cảnh khủng khiếp không tưởng tượng nổi. Tờ The Economist nhắc đến ‘sự việc lên đến nửa triệu xác chết trong Biển Đông’ có thể thổi phồng một cách chắn chắn điều tôi đang cố gắng truyền đạt.

Câu chuyện của tôi sẽ không thể đáng tin được nếu không kể đến hai trong số những chiếc tàu mà chúng tôi phải xử lý. Một là chiếc tàu vận tải hàng hoá đi biển Panamanian được đăng ký tên Skyluck, là chủ đề của một câu chuyện khác được viết bởi Jon Davison trong cùng cuốn sách này. Chiếc tàu còn lại là một chiếc tàu cũ kỹ khủng khiếp tên Hạ Long, cập bờ ngày 15 tháng 4 năm 1979. Chiếc tàu dài 35 mét, dành cho ba mươi người, nhưng nhét tổng cộng 573 người trên tàu. Nói rằng họ bị ‘đóng hộp như cá mòi’ mới có thể vừa vặn diễn tả được công bằng tình huống của họ. Họ đã bị xếp lớp – đàn ông, phụ nữ và trẻ em kẹt cứng và không thể nhúc nhích. Chỉ có thể tự hỏi bằng cách nào những người trên tàu đã có thể sống sót sau cuộc hành trình dài.

Nhật ký của tôi ghi lại rằng tôi thật sự đã bước lên chiếc tàu Hạ Long ngày 19 tháng 4 đó, tuy vậy, chuyện tôi đã xoay xở thế nào để tìm ra một nơi cho chân tôi đặt lên, đúng là nên được ghi thành một mục trong Sách Kỷ Lục Guinness. Vì điều kiện quá kinh khủng trên chiếc tàu nên những người tỵ nạn được ‘kiểm nhanh’ và cho lên bờ hai ngày sau đó. Nhìn lại vụ việc, phản ứng đầu tiên của tôi là cảm thấy thật nhẫn tâm đã để những tâm hồn nghèo khốn khó kia trên chiếc tàu đến tận sáu ngày. Nhưng mà, như tôi đã nói đó, đây chỉ là một trường hợp khủng khiếp thôi, không tồi tệ hơn những trường hợp khác đâu.

Tôi muốn chia sẻ với bạn hai tình tiết mà với tôi, nó thật sự diễn tả được cái ý tưởng chuyện xót xa đến rã rời. Những tình huống như thế này xảy ra hằng ngày.

Câu chuyện thứ nhất

Giang Vinh là một trong 2651 người chạy trốn trên chiếc tàu Skyluck, một linh hồn già cỗi mà sự yếu đuối đi ngược lại quyết tâm vĩ đại của bà. Bà nhanh chóng bị kiệt quệ sau khi thuyền đến Hồng Kông vào tháng 2 năm 1979, và cuối cùng chết đi trong vòng tay tha thiết của gia đình cũng đang kiệt sức vì đau buồn. 

Làn sóng thuyền nhân bất ngờ đổ vào như thế đã gây nên một cuộc hoảng loạn càn quét qua Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn. Chúng tôi cần thời gian và nguồn lực để cung cấp chỗ ở thích hợp cũng như hỗ trợ về lương thực và y tế cho hàng ngàn người như vậy. Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài cách giữ họ lại trên chiếc thuyền Skyluck suốt năm tháng sau đó, trong khi chờ đợi các cơ sở tiện nghi kia được thiết lập. 

Và như thế, bà Vinh đã chờ đợi một cách kiên nhẫn trên chiếc tàu đã mang bà chay trốn, bà trút hơi thở cuối cùng – với đôi mắt mở trừng trừng. Cái chết, đó là lối thoát thứ hai: linh hồn bà bây giờ rời bỏ cơ thể bà đang nằm kia; không lâu trước đó, bà đã cảm thấy một sự thôi thúc phải rời khỏi xứ sở của mình. Cái chết của bà để lại trong tôi một sự đau lòng thảm thiết. 

Chúng tôi cẩn thận nâng cái thể xác đói khổ và mong manh của bà từ trên thuyền đi đến nhà xác để yên nghỉ. Phút giây ấy tôi biết rằng mình chẳng thể nào nói không với lời thỉnh cầu của gia đình bà Vinh: họ xin phép được đến thăm nhà xác để có thể vuốt mắt cho mẹ, để bà được nhắm mắt ra đi. 

Để mẹ được chết nhắm mắt! Điều này làm tôi xúc động mãnh liệt. Bản năng tự nhiên mách bảo tôi rằng đề nghị này rất chính đáng theo một cách nào đó vì vậy họ không nên bị từ chối cái cơ hội để thực hiện nó. Mặc dù bị áp lực đè nặng chuyện người tỵ nạn và phải đối mặt với cơn ác mộng của công việc hậu cần, tôi vẫn dành thời gian để đưa gia đình bà Vinh đi làm cái công việc vuốt mắt cho bà lần cuối. 

Bây giờ, vào ban đêm họ đã có thể dễ ngủ hơn. Dễ ngủ hơn chứ không phải là ngủ ngon. Tôi biết, cho đến lúc họ có thể nhìn thấy những tình huống kinh khiếp mà họ trải qua, những cơn ác mộng quấy rầy và họ giật mình thức giấc vì những giọt nước mắt của chính mình. 

Trong lúc gia đình bà Vinh đi ngược lại chiếc tàu Skyluck, cái cảm giác anh hùng hay chiến công về những chuyện mình đã làm, một chút xíu tôi cũng không có. Tôi chỉ là muốn trao cho những con người bất hạnh kia một mảnh vụn rất nhỏ của tự do khi họ phải đối diện với một thảm kịch khủng khiếp của nhân loại. 

Bà Vinh bảy mươi chín tuổi và là một người được kính trọng nhất trong gia đình. 

Câu chuyện thứ hai

Cô gái loạng choạng bước xuống thuyền và chậm chạp đi về phía tôi. Ba đứa trẻ nhỏ đang khóc thảm thiết và bám chặt vào thân thể gần như đã chết của cô. Quần áo của họ đã rách nát, treo phất phơ trên cơ thể yếu ớt của họ. 

Là Quản Lý của Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn tại Hồng Kông, tôi nhìn thấy hàng ngàn con người như vậy mỗi ngày. Tuy vậy, tôi có cảm giác hài lòng, theo những gì tôi biết, chúng tôi chưa bao giờ quay lưng lại với bất kỳ người tỵ nạn nào. Chúng tôi chưa từng kéo chiếc tàu nào ngược ra biển lớn rồi để mặc họ tự lo sống chết.

Nhưng tôi lại không thể rời mắt khỏi cô ấy. Tôi dùng mắt lần theo biểu hiện đau lòng trên khuôn mặt cô và rồi, khi nhìn xuống, thấy được lý do thật sự của sự tuyệt vọng kia. Một đứa trẻ sơ sinh chết trong vòng tay, ủ rũ và không có chút sự sống, như thể nó bị chết chìm trong nước mắt của mẹ nó. Sự tuyệt vọng trong mắt người phụ nữ đó còn theo tôi mãi mãi. Không phải là đặc biệt kỳ lạ gì, trường hợp của cô chính là hình ảnh thu nhỏ của những cảnh đời khốn khổ của hàng ngàn người tỵ nạn đã đi qua đời tôi mỗi ngày trong quá khứ. 

Tôi và các đồng nghiệp mang trên vai một gánh nặng phải nhìn thấy những nỗi kinh hoàng, nhưng chúng tôi không cho phép mình được xúc động bởi những trường hợp cá nhân. Mặc dù vậy, cho đến cuối cùng, lòng trắc ẩn đã chiến thắng.

Talbot Bashall

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biên Bằng Bè

Vượt Biên Bằng Bè

Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng…

Đọc thêm
Cụm Bèo Lục Bình

Cụm Bèo Lục Bình

Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…

Đọc thêm
SOS!Cứu chúng tôi với!

SOS!Cứu chúng tôi với!

Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.

Đọc thêm

Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc

Lời Mở Đầu

Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ “boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, họ ước lượng khoảng 165,000 người chết trong tù cải tạo, 65,000 người bị xử tử, và 50,000 người chết nơi vùng kinh tế mới. Một số người tự tử mà không ai có thể đoán được là bao nhiêu. Những yếu tố này cộng với  sự nghèo khổ tận cùng và nhà cửa bị tước đoạt trắng trợn khiến cho cả trăm nghìn người đua nhau tìm đường ra biển tìm tự do vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980. Nếu may mắn không bị lừa tiền mất tật mang, được ngồi trên một chiếc ghe ra biển, những thuyền nhân này phải đối diện với cuồng phong bão tố, với sóng biển lật tầu, với thức ăn nước uống khan hiếm, với bệnh tật không thuốc men, và cái hiểm họa kinh khủng nhất, lớn lao nhất, là thuyền gặp hải tặc Thái Lan. Biết bao nhiêu ghe thuyền đã bị hải tặc Thái Lan cướp bóc, hãm hiếp, tước của, giết người. Theo Elizabeth Becker trong When The War Was Over (1986), căn cứ theo thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (U.N. High Commissioner on Refugees) 250,000 boat people bỏ thây trên biển cả, 926,600 người đến đất tự do an toàn. Có nghĩa là cứ bốn thuyền nhân Việt Nam trốn đi tìm tự do, một người chết mất tích.

Hai tháng trước đây tôi có cơ hội gặp cô Nguyễn Thị Kiều Hạnh là một trong những “boat people” tìm cách rời khỏi Việt Nam hơn ba mươi năm trước. Mỗi lần vượt biên, Hạnh đều đi chung với hai người anh, và số phận không may, một trong hai người anh chết trên biển trong một chuyến đi.

Đây là Chuyện Của Hạnh

Giống như đa số người Việt khác sống dưới chính thể VNCH, gia đình Hạnh kẹt lại ở SàiGòn khi chiếc xe tăng phá đổ hàng rào Dinh Độc Lập vào ngày 30-4-1975. Bố mẹ Hạnh, dân Bắc di cư vào Nam năm 1954, sinh ra Hạnh và hai anh trai trong SàiGòn. Là cựu sĩ quan trong quân lực VNCH, bố Hạnh cũng như bao quân nhân khác bị đày đi tù cải tạo. Bố Hạnh được thả về năm 1980, nhưng một năm trước đó mẹ Hạnh đã quyết tâm tìm đủ mọi cách cho ba con của mình tìm đường tự do. Trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1983,  ba anh em Hạnh trải qua bao nhiêu địa danh miền Tây và Long Hải, Chu Hải, Láng Cát, Long Đất, Bà Rịa, Vũng Tầu… trong hơn hai mươi chuyến vượt biên,  nhưng tất cả không thành công.

Có chuyến anh em Hạnh bị lừa ngay từ nhà vì người chủ mưu lấy tiền, hẹn đến đón nhưng không đón. Có chuyến họ lấy tiền,  hẹn một ngày nào đi nhưng cả gia đình họ bỏ trốn đi trước, đến nhà thì nhà bỏ trống.  Sau này vì lừa đảo khắp nơi nên người đi chỉ đặt một số tiền cọc, ngày hôm sau khi không nghe tin gì của người nhà mình nữa, có nghĩa là đã đi thì mới trả nốt số tiền còn lại. Thế mà họ cũng lừa: họ đưa anh em Hạnh về miền Tây, đưa anh em Hạnh vào nhà của người dân nằm chờ, nhưng họ bảo vì động tĩnh nên chưa đi ngay được, phải nằm đợi một hay hai ngày. Trong khi đó họ trở lên SàiGòn lấy tiền của mẹ Hạnh, nói rằng anh em Hạnh đã đi. Tìm đường vượt biên bất chợt và bất  thần như thế nên anh em Hạnh rất mệt mỏi về tinh thần, không những về sự căng thẳng của chuyện vượt biên, mà còn căng thẳng của sinh hoạt trong đời sống. Đôi khi trong lúc đang đi học Hạnh được mẹ vào trường xin phép cho về vì tìm ra mối đi. Khi đi không được, có đêm ba giờ sáng mới về lại đến nhà, mệt quá anh em đi ngủ ngay. Sáng dậy Hạnh hấp tấp đến trường, khám phá hôm ấy thi mà Hạnh chẳng biết thi môn gì, đề tài nào nên cứ làm cho lấy lệ, bài làm được hai, ba điểm là chuyện thường.

 

Trong hơn hai mươi chuyến tìm tự do đó, có ba chuyến Hạnh nhớ nhiều nhất.

 

Chuyến đi thứ nhất cả ba anh em được người móc nối đưa ba địa điểm đến đứng đợi khác nhau để có người sẽ đến đón chở đi ra bến xe. Hạnh và một cô gái khác trạc tuổi được chỉ định đến đứng đợi ở vườn Tao Đàn, góc đường Hồng Thập Tự & Đoàn Thị Điểm. Theo lời hướng dẫn, hai người phải đứng xa nhau ra, một người chỗ này, một người chỗ kia để tránh gây công an chú ý. Vì người đến đón sẽ không biết ai là ai, Hạnh và cô gái đó cho biết trước hôm đó sẽ mặc quần áo mầu gì, tóc chải như thế nào cho họ dễ bề  nhận diện. 

Chiều hôm đó sau khi chuẩn bị xong, Hạnh đến chỗ hẹn sớm vì sợ sẽ bị hụt chuyến đi nếu đến trễ. Rút kinh nghiệm của những lần khác đi vượt biên, ngoài chiếc áo bà ba và quần đen mặc trên người, Hạnh mang theo một giỏ cói với một bộ quần áo phụ trội phòng trường hợp cần phải thay. Đến đứng ở vỉa hè trên đường Hồng Thập Tự như đã giao hẹn, Hạnh ngó dáo dác tìm cô gái đi chung với Hạnh nhưng không thấy cô ta ở đâu. Mọi sinh hoạt trên đường phố có vẻ bình thường. Một người đàn ông còm cõi với ống bơm xe đạp và vài món phụ tùng thô sơ với chiếc bảng quảng cáo viết nguệch ngoạc vá bánh xe. Góc bên đường một bà ngồi bán chuối nướng bên cạnh quầy gánh. Xe đạp, xe gắn máy, xe xích lô lưu thông hai chiều, khách bộ hành đi qua lại, ai lo việc người nấy. Tuy rằng tim Hạnh đập nhanh hơn bình thường vì biết rằng mình đang tham dự vào một chuyến vượt biên, nếu bị Công an phát giác thì sẽ bị bắt, nhưng vì mọi sự chung quanh Hạnh có vẻ bình thường nên Hạnh cũng tạm yên lòng. 

Độ chừng mười lăm phút sau, một người đàn ông trên một chiếc Honda đang lái trên đường, chạy chầm chập lại và cuối cùng ngừng trước Hạnh. Ông ta cất tiếng:

-Đi em. Đi, đi em.

Hạnh đoán ông ta là người trong tổ chức mẹ Hạnh trả tiền cho con đi vượt biên, và vì cái giỏ cói mang theo nãy giờ Hạnh để xuống đất, cách xa Hạnh độ một bước chân nên trả lời:

-Dạ, đi, nhưng ông chờ tui một tí, tui lấy cái giỏ.

-Tại sao đi mà lại xách giỏ theo? Người đàn ông hỏi.

-Tui phải xách giỏ theo thì mới có quần áo thay, chứ không thôi quần áo dơ thì lấy đồ sạch ở đâu ra thay? 

Vừa trả lời, Hạnh vừa bước chân đến xe người đàn ông. Chợt nhớ ra theo chương trình cô kia cũng đi với mình, Hạnh hỏi:

-Còn cô bạn của tui, ông có chở đi theo không?

-Em có bạn nữa hả?Tui muốn em đi với tui thôi, hai cô làm sao tui lo hết cùng một lúc? Thôi, bây giờ chở em đi trước, xong rồi tui sẽ quay lại chở bạn của em.

Hạnh lúc này tinh thần căng thẳng nên chỉ lo đến sinh mạng mình, không nghĩ đến cô kia nữa, ngây thơ hỏi:

-Bây giờ mình ra bến xe nào vậy ông?

Người đàn ông lộ vẻ ngạc nhiên:

-Tại sao mình cần ra bến xe? Gần đây cũng có phòng, mình đâu cần đi bến xe làm gì cho xa? 

Hạnh khựng lại khi nghe người đàn ông trả lời. Hạnh cần ra bến đón xe đò chở mình ra biển đi vượt biên chứ đi tìm phòng làm gì. Đang loay hoay suy nghĩ thì hai cô gái khác đi ngang qua, nhìn rồi huýt hà Hạnh một cái. Nhìn y phục ngắn cũn cỡn của hai cô này nên Hạnh bừng tỉnh: nơi đây là chỗ mấy chị em ta đứng đợi khách. Hạnh xua tay vội nói:

-Không, tui không đi với ông nữa.

Người đàn ông thất vọng:

-Sao em không đi? Thôi em cứ đi đi, bao nhiêu tiền cũng được, bao nhiêu tiền tui cũng trả.

Nghe người đàn ông nói đến câu bao nhiêu tiền, Hạnh bây giờ biết chắc là mình lầm, quả quyết trả lời :

-Không, tui không đi với ông. Và rồi quẩy gót bước đi rời khỏi chiếc xe gắn máy. 

Người đàn ông chạy theo, nắm cổ tay Hạnh, một mực van nài:

-Thôi em đi với anh đi mà…

Hạnh hét lên:

-Buông tui ra!

Tiếng hét của Hạnh làm người đàn ông sợ hãi, trở lại xe rồ máy đi luôn. Hạnh đứng đó thêm một giờ để đợi người đến đón, nhưng không thấy ai nên đón xích-lô đi về nhà.

Khi nghe Hạnh kể lại chuyện đã xẩy ra, mẹ Hạnh tuy buồn con lại hụt thêm một chuyến đi, nhưng mừng con gái đã không bị kẻ gian làm ô uế, và không dám cho Hạnh đi lần kế tiếp kiểu như thế này nữa.

Chuyến Đi Thứ Nhì

Chuyến đi thứ nhì cũng như lần trước, Hạnh đi cùng với một cô gái khác, và hai anh của Hạnh được tách ra riêng. Hạnh đi xe đò xuống Chu Hải, được người ta đưa vào một nhà thường dân ngủ qua đêm rồi rạng sáng họ dùng ghe nhỏ đưa hai người ra tầu lớn. Đến tầu lớn thì Hạnh gặp lại hai anh của mình. Khi Hạnh lên tầu thì tầu đã gần đầy, Hạnh được hướng dẫn đi xuống hầm gần buồng lái, nơi phần đông các ghe vượt biên dấu đàn bà con nít. Vì có hai, ba ghe nhỏ ở  dưới vẫn còn nhiều người chưa lên mà tầu đã gần đầy, Hạnh nghe tiếng cãi cọ lớn tiếng giữa người tài công và người đưa mối vì tài công sợ tầu quá tải. Những người đưa mối muốn thu lợi tức tối đa nên thường mang khách đến nhiều hơn số người ấn định. Cãi nhau gần mười lăm phút, Hạnh tưởng tầu sẽ không bao giờ đi thì tầu rời bến trước khi trời hừng sáng. 

Tầu chạy chỉ có một thời gian rất ngắn, chưa đủ cho Hạnh thở dài nhẹ nhõm đã rời khỏi hải phận Việt Nam thì ngừng. Cũng như Hạnh, tất cả đàn bà ngồi dưới hầm tầu không biết lý do tại sao tầu ngừng. Ngước mắt nhìn qua lỗ trống tầu nhìn lên người anh ngồi gần đó, Hạnh nghe anh ấy nói tầu bị mắc cạn.

Cái tin tầu mắc cạn lan truyền khắp hầm nhanh như sao xẹt. Anh Hiếu ra dấu cho Hạnh bước ra khỏi hầm nên Hạnh bước lên boong tầu. Việc đầu tiên Hạnh thấy là trời đã sáng tỏ, và việc thứ hai, Hạnh không tin vào chính mắt của mình: tuy rằng chung quanh là nước biển mênh mông nhưng tầu lại mắc cạn nằm trên một con ụ nhỏ ngay giữa biển!

Câu hỏi trong đầu của mỗi người là tại sao biển cả mênh mông tầu không chạy, mà lại chạy đúng vào cái ụ này để cho bị mắc cạn làm anh tài công sau vài lần trả lời, nổi nóng:

-Mấy người có ngon thì ra lái đi!

Dĩ nhiên là không ai biết lái nên mấy người đàn ông bàn tính nhẩy xuống nước cố gắng thử đẩy tầu ra khỏi chỗ cạn. Thế nhưng cho dù tất cả đàn ông nhẩy xuống đẩy, chiếc tầu quá nặng không biết đẩy có nổi không, và chỗ đất cạn người ta có thể đứng được quá nhỏ, chỉ vừa đủ năm, sáu người đứng. Không có cách gì mà năm người có thể đẩy chiếc tầu chứa gần trăm người ra khỏi chỗ cạn.

Không giải thoát chiếc tầu được thì chỉ còn cách chờ. Người tài công không còn hy vọng gì nữa, nói mọi người ngồi chờ cho công an đến bắt. Nhiều người bàn tính là đợi  cho đến khi nước thủy triều lên, tầu nổi trên nước thì đi tiếp. Nói thì dễ thế nhưng họ không biết thủy triều lên vào lúc nửa đêm, có nghĩa là mười sáu giờ đồng hồ nữa.

Hạnh để ý thấy dưới dàn đáy của chiếc tầu nơi chân vịt dính một đống lưới cá. Sáng sớm ngư phủ ra đây trải lưới bắt cá, tầu chạy dính vào lưới nên vừa bị cạn đất, vừa bị mắc lưới. Điệu này thì tầu không thể nào đi đâu được nữa, đúng như tài công nói, chỉ còn cách duy nhất là ngồi chờ. 

Khi con tầu lướt trên nước, dù là chiếc tầu đầy những người, mọi người không cảm thấy chật chội và nóng nực vì có gió thổi và tầu nhấp nhô lên xuống. Bây giờ chỉ ngồi yên một chỗ chưa đầy hai giờ đồng hồ mà rất nhiều người đã mất kiên nhẫn vì nóng, vì hầm, vì mỏi mệt, vì tiếng con nít khóc, vì có người đã bắt đầu giành giật thức ăn, và vì lo sợ không biết sự thể sẽ xẩy ra như thế nào.

Cái ụ nơi chiếc tầu mắc cạn xem thế mà không xa bờ bao nhiêu vì người trong tầu vẫn có thể thấy núi Vũng Tầu. Chính vì điểm này mà sau cùng tài công và những người phụ tá nói là họ quyết định sẽ bơi vào bờ để gọi người giải cứu. Người nào bơi giỏi có thể nhẩy xuống bơi vào bờ với họ. Người nào không biết bơi thì ngồi lại trong tầu, chờ công an phát hiện, đến bắt.

-Làm sao mà ông bỏ tầu được? Ông là tài công, ông bỏ tầu, lỡ tầu chìm thì chúng tôi chết hết làm sao? Mọi người nhốn nháo khi biết anh tài công và những người phụ giúp quyết định bỏ tầu.

Tui không thể nào ngồi đây được vì tui biết tầu này mắc cạn, không đi đâu được nữa. Mấy người đừng lo sợ chết chìm. Trời đã sáng rồi, thế nào tầu mình cũng bị công an phát giác nên thà tụi tui bơi vào vì còn có cơ hội không bị tụi nó bắt.

Nói xong, những người lái tầu nhẩy xuống biển bơi vào bờ. Một số người đàn ông và vài cô con gái trẻ tuổi bơi giỏi thấy vậy cũng quyết định nhẩy xuống bơi theo.

Nhìn những người nhẩy xuống nước, Hạnh rùng mình. Tuy rằng thấy núi Vũng Tầu, khoảng cách bơi vào rất xa. Hạnh sợ nước biển vì không biết có gì trong đó, và nhất là Hạnh bơi không giỏi. Nhưng ngược lại, hai anh Hạnh bơi rất thiện nghệ. Hai người đến nắm tay Hạnh. Hiệp nói:

-Hạnh, anh em mình nhẩy xuống bơi vào bờ.

-Không, em bơi không nổi! Em sẽ chết chìm cho mà xem.

-Có anh với anh Hiệp bơi với em, tụi anh đâu để cho em chết chìm.

-Thôi, ở lại tầu em còn có cơ hội sống. Bơi vào bờ thì chắn chắn em sẽ chết. Hai anh cứ bơi vào, bỏ mặc em ở đây.

-Ba anh em mình đã đi trốn bao nhiêu lần, sống chết có nhau, làm sao tụi anh để em ở lại được. Em bơi ở giữa, hai anh bơi hai bên. Nếu mệt thì em thay phiên vịn vào anh hay vịn vào Hiếu, thế nào mình cũng vào bờ, không chết được.

-Em sợ lắm.

-Nghe lời anh đi. Nhìn vào mắt anh nè: anh hứa anh sẽ không để cho em chết. Mỗi lần chúng mình đi vượt biên, anh hứa với bố mẹ sẽ lo cho hai em thì mạng sống của em anh không thể nào để mất được. Tin vào anh nhe Hạnh.

Nói xong anh của Hạnh khóc và ôm chầm lấy Hạnh. Hạnh cũng òa khóc theo vì thương hai anh, thương bố mẹ, lo sợ không những chỉ cho mình mà cho cả ba anh em chết chìm dưới lòng đáy biển đại dương, không bao giờ gặp bố mẹ được nữa.

Hạnh muốn ở lại vì sợ bơi vào, nhưng mấy chuyến vượt biên anh em không bao giờ xa cách, cùng sát cánh với nhau nên Hạnh cũng sợ bị tách rời khỏi hai anh. Sau khi lẩm bẩm xin Trời Phật ủng hộ, Hạnh nhắm mắt  nhẩy vào lòng biển với hai anh.

Một khi bắt đầu vẫy vùng tay chân bơi vào bờ, Hạnh không nhìn về hướng núi nữa vì mục tiêu quá xa, nó làm cho Hạnh nản chí. Bơi giữa theo hai người anh dẫn đường, lúc nào mệt thì Hạnh nắm vai anh này nghỉ thở, bơi tiếp rồi mệt nữa thì lại nắm vai anh kia. Cố gắng đuổi cái  ý nghĩ khiếp đảm ngừng bơi là chết, Hạnh chỉ nhìn vào hai người anh của mình và cứ nhắc nhở trong lòng là phải gắng sức bơi theo hai anh. Thế nhưng có một vài lúc quá đuối sức uống nước biển sặc mũi, Hạnh không còn biết sợ cái chết là gì, ngừng kéo tay đập chân, quyết tâm chết để hai anh rảnh tay bơi vào bờ, khỏi phải lo gánh nặng của mình nữa. Những lúc ấy thì Hạnh sửng sốt bừng tỉnh khi cả hai anh của mình hét to lên:

-Hạnh! Ráng lên em! 

Rồi cả hai người xốc Hạnh hai bên tay. Những lúc như vậy Hạnh trở nên tỉnh táo và làm như có một Đấng nào ban thêm năng sức, Hạnh tiếp tục kéo sải tay, đập chân cho người lướt trên nước.

Không biết bơi trong bao lâu mà đến một lúc quá kiệt sức, Hạnh nói với hai anh đỡ cho Hạnh một tí. Lúc ấy Hiếu mới bảo đã gần đến bờ rồi, Hạnh đặt chân xuống thử xem. Hạnh đặt chân xuống, và quả thật, thấy chân mình chạm đất. Nước biển lúc bấy giờ ngang tầm ngực, bờ biển đã ngay trước mặt  nhưng Hạnh không thể nào tiến lên thêm một bước hay kéo thêm một sãi tay. Hai anh Hạnh phải dìu em đứng nhấp nhô trong nước.

Những người đã bơi đến trước nằm la liệt trên bờ, người nào có sức thì chạy vào biển trở lại để dìu  những người kiệt sức vừa mới đến. Đứng nghỉ mệt một lúc lâu, hai anh Hạnh bơi theo em vào bờ.

Bước chân lên bãi cát, bây giờ Hạnh mới thấy áo mình rách tả tơi, quần rách thành chục miếng như lá tranh lợp nhà, và hai chân chẩy đầy máu, từ đùi xuống bàn chân. Nhìn chung quanh, chẳng những chỉ có Hạnh mà ai nấy chân cũng đầy máu. Dưới biển là bãi san hô với đầy hào nên hào cắt chân mọi người khi va chạm vào nó.

Công an ở trên núi dùng ống nhòm thấy rõ tầu vượt biên bị kẹt và người trên tầu bơi vào bờ nên đã tuôn ra bờ biển, tụ họp tất cả  những người đã lên bờ ngồi tập trung vào một chỗ để bắt. Hạnh đoán có khoảng chừng 25 người đàn ông và bốn, năm người đàn bà.

Ngồi trên bờ nhìn ra biển, vì vẫn còn có người nhấp nhô trên sóng biển đang bơi từ tầu mắc cạn vào  bờ, Hạnh hỏi một người công an: 

-Cán bộ ơi, cán bộ làm ơn ra cứu những người đang bơi vào kia kìa.

-Tụi mày đi vượt biên thì cho chết luôn chứ cứu làm gì? Người công an trả lời.

Cả ba anh em Hạnh bị bắt vào tù. Những người ở trong tù trước thấy quần áo Hạnh tơi tả nên cho Hạnh mượn quần áo thay. Lúc đó Hạnh mới thấy cả hai chân từ đùi trở xuống  bị cả trăm vết hào cắt chẩy máu nát bấy. Hạnh khóc, nghĩ rằng chân sẽ mang thẹo, suốt đời sẽ không bao giờ mặc jupe được nhưng may mắn thay nhờ mẹ Hạnh gửi thuốc trụ sinh cho uống trong tù mà hai năm sau tất cả vết thẹo dần dần biến mất.

Mỗi lần đi không thành công bị bắt, anh em Hạnh tìm cách báo tin về cho bố mẹ. Một khi mẹ Hạnh  đã biết bị tù ở nơi nào, Long Hải, Lạng Cát, Bà Rịa, Vũng Tầu…, thì mẹ Hạnh đến nơi ấy chạy chọt tiền hối lộ cho anh em Hạnh ra. Vì thế chỉ trong vòng hai tuần Hạnh được thả về SàiGòn để đợi chuyến đi vượt biên kế tiếp.

Chuyến Đi Kế Tiếp

Chuyến đi kế tiếp lần này Hạnh và hai anh được người móc nối hẹn ra bến xe đò riêng biệt đi Vũng Tầu để khỏi bị tình nghi khi xét hỏi. Hạnh được cho địa điểm của một quán nước gần bến xe đò, phải tự túc tìm phương tiện đến quán nước. Hạnh cho người ta biết trước là Hạnh sẽ mặc quần bà ba đen, áo xanh dương đậm, tóc buộc đuôi gà  để người móc nối nhận diện ra Hạnh, và ngược lại, họ cũng cho Hạnh biết là người móc nối sẽ là một người đàn bà. Bà ta mặc quần đen, áo nâu đậm, chân mang dép. Bà ta ngồi uống nước với hai ly trên bàn chứ không phải một ly. Thời bấy giờ muốn đi đâu xa phải có giấy phép nhà nước cấp thì mới mua được vé xe đò giá chính thức. Những người vượt biên dĩ nhiên không có giấy phép di chuyển, thành ra phải mua vé xe giá chợ đen, thế nhưng người tổ chức vượt biên lo tất cả những chuyện này.

Khi đến quán nước, bà móc nối đã đợi sẵn. Bà ta  chờ thêm ba người nữa đến hiện diện rồi đứng lên đi đến xe đò. Hạnh và mọi người đứng lên đi theo bà ta. Không cần mua vé vì bà ta đã lo sẵn, mọi người tìm chỗ ngồi trên xe đò,  không ai nói với ai một tiếng. Quen với những chuyến đi trước, Hạnh không lo nghĩ đến hai anh của mình khi xe đang chạy vì biết rằng sẽ gặp anh ở địa điểm mình sẽ đến. Khi đến bến xe Vũng Tầu, mọi người theo sự hướng dẫn của người đàn bà leo lên một chiếc xe lam. Nó chạy độ hai mươi phút thì ngừng. Bà móc nối dặn mọi người đi theo là bà ta sẽ ngừng ở đầu xóm. Từng người một sẽ đến căn nhà bên trái có một cây mận và một chiếc xe đạp ở trước cửa. Một khi vào trong nhà, mọi người được lệnh lên trên lầu, đóng cửa sổ, không lộ diện cho người ngoài biết. Những nhà chứa chấp người đi trốn hầu hết là gia đình nghèo, nhận một số tiền của người móc nối để cung ứng chỗ tá túc và cho người vượt biên ăn cơm bữa. Theo chương trình thì đáng lẽ đêm đầu tiên sẽ đi nhưng họ nói có công an đi tuần nên đình trệ vào đêm hôm sau. Bữa cơm gia đình Hạnh tá túc họ nấu rất đạm bạc, chỉ có cá kho mặn và rau muống. Hạnh có mời họ ăn chung nhưng họ từ chối, nói là lo cho người đi ăn trước. Thành thử ra bữa cơm nào cũng vậy, bọn Hạnh ăn xong thì họ mới ăn phần còn thừa. Vì như vậy mà người đi cũng không muốn ăn nhiều, để lại thức ăn cho gia đình họ. Đêm cuối cùng thèm ăn chè, Hạnh  đưa tiền cho họ mua đậu để nấu chè đậu đen.

Đêm hôm sau họ cho biết là sẽ đi. Khoảng một giờ đêm họ bắt đầu dẫn từng toán ba, bốn người ra khỏi nhà, thanh niên thiếu nữ đi trước, gia đình con nít đi sau. Một người đàn ông dẫn anh em Hạnh đi.Trong bóng đêm đi trong  những cánh đồng, bốn người không dám đi đường cái vì sợ công an phát hiện. Người hướng dẫn đi trước, anh em Hạnh cứ lủi  thủi theo sau, bám sát nút người dẫn đường, không ai thốt lên một lời nào. Thỉnh thoảng anh Hạnh đến nắm tay em để trấn an, cho Hạnh biết là lúc nào cũng có hai anh ở bên mình. Lâu lâu khi nghe có tiếng xe và thấy ánh bóng đèn chiếu từ xa xa, mọi người ngừng lại, ngồi xuống chờ cho đến khi ánh đèn xe đi khuất.

Đi như thế độ nửa giờ đồng hồ thì đến một con sông có ghe đã đợi sẵn. Anh em Hạnh lên ghe, người hướng dẫn quay trở về. Cũng không ai nói với ai một lời, người trên ghe chèo xuồng len lỏi gần bờ nơi có sậy cao bằng đầu người để tránh bị phát hiện. Ánh trăng yếu ớt soi đường, tiếng động trong đêm vắng tối nay chỉ là tiếng khua nước se sẽ của cây chèo đò. Chèo yên lặng như thế độ nửa giờ thì đến thuyền lớn. Từ nãy đến giờ Hạnh không thấy một bóng người nhưng nơi thuyền lớn đậu là một quang cảnh tấp nập. Những người đi vượt biên như Hạnh đến tua tủa từ khắp nơi. Ai đến trước thì xuống dưới hầm thuyền, vào bên trong ngồi. Chẳng những chuyển người từ ghe lên thuyền, họ cũng chuyển xăng dầu, lương thực và những vật dụng cần thiết cho chuyến đi lên thuyền. Trong cái cảnh tượng nhộn nhịp như vậy, một số người vượt biên dành nhau ngồi chỗ  tốt. Rồi cũng có một số người đi chui không trả tiền nhưng cũng đòi di theo nên mọi người bắt đầu sinh sự cãi vã.

Những người đến đi hôi làm lớn chuyện, nói không cho đi theo thì họ sẽ la lớn cho công an đến bắt nên cuối cùng người chủ ghe giận dữ bảo:

– Mấy người có điên hay không mà cãi nhau lớn tiếng vậy? Công an phát giác đến bắt thì không ai đi đâu hết. Im dùm cho tui một cái đi. Lẹ lẹ ai nấy vô chỗ ngồi để thuyền còn nhổ neo đi trước khi bị động.

Ông chủ ghe nói có oai quyền nên người bị khiển trách trở nên im lặng, âm thầm lên thuyền cho nhanh chóng. Trời sắp sửa hừng sáng thì thuyền nhổ bến ra biển sau khi đã đủ những người vượt biên lên tầu. Hạnh không đem đồng hồ nên không biết mấy giờ, nhưng đoán ít nhất cũng là năm giờ sáng. Trời vẫn còn tối thui,  thuyền chạy không bật đèn vì lý do hiển nhiên là sợ bị phát giác.

Phần lớn những chuyến vượt biên của anh em Hạnh là bị gạt ngay từ đầu, hẹn không bao giờ đến, lấy tiền nhưng không thực sự tổ chức vượt biên, hay đã đến thuyền lớn, bị công an phát giác nên bỏ chạy. Chỉ có vài chuyến là thuyền ra biển thật sự. Lần này là một trong những lần ít oi đó nên tâm khảm Hạnh rất vui mừng là cuối cùng mình sẽ tìm được tự do ở một nước ngoài.   

Thức từ suốt đêm nên khi thuyền chạy, Hạnh và mọi người như nằm trên cái võng đong đưa, thiếp ngủ một giấc. Ngủ như thế không biết là bao lâu nhưng chắc chắn thuyền đã ở trên biển vì Hạnh ngửi mùi người ta bắt đầu ói mửa khắp nơi vì sóng nhồi. Mùi nồng nặc ô uế ói mửa làm người nào không muốn ói cũng nôn mửa, và đến phiên Hạnh cũng ói theo. Hai bát chè đậu đen Hạnh ăn tối hôm qua bây giờ đã đi ngược lối, ói ra hết. Ngồi một chốc nữa, Hạnh lại ói ra một đống nước mầu xanh. Nhìn mầu đen và mầu xanh nôn mửa trong túi nylon đem theo phòng hờ, bây giờ Hạnh mới biết tại sao người ta nói “ói ra mật xanh mật vàng”. Quá mệt, Hạnh lại ngủ tiếp. 

– Hạnh, Hạnh, dậy uống nước!

Tiếng người gọi tên mình làm Hạnh tỉnh giấc. Mở mắt ra, Hạnh thấy anh Hiệp đứng cạnh bên mình, tay cầm một ca nước. Hạnh lấy ca nước uống. Bây giờ Hạnh mới thấy vài người đàn ông và hai anh Hạnh mang nước xuống hầm cho đàn bà con nít uống. Hiệp nói:

– Em ở dưới này bí hơi, mệt lắm. Đi với anh lên boong tầu ngồi một chút cho khỏe.

Hiệp và Hiếu dìu Hạnh lên trên, đến gần chỗ buồng lái nơi cửa ra vào, bảo em mình ngồi xuống dựa vào bức tường gỗ, thở không khí trong lành cho lấy lại sức.

– Hạnh ngồi đây nghỉ nhe. Anh xuống boong tầu dẫn người khác lên.  Hiệp nói xong, quay trở lại xuống hầm tầu để đưa người mệt lả lên boong tầu cho thoáng khí.

Trên boong tầu thoải mái hơn rất nhiều so với dưới hầm tầu, quá hầm hực. Cạnh Hạnh là Hiếu tiếp trợ anh mình khi  Hiệp mang lên cô kế tiếp từ dưới boong tầu lên, cho ngồi xuống gần bên Hạnh.  Con thuyền vẫn nhấp nhô càng lúc càng mạnh bạo. Hiệp dìu cô khác lên mà đôi lúc phải ngừng lại bám vào thành cầu thang cho khỏi ngã. Xem anh đi xuống vào boong tầu để mang thêm người khác, Hạnh nhắm nghiền mắt lại vì bị chóng mặt khi mở mắt nhìn đầu tầu nhấp nhô lên xuống. Trong cái khoảng tối đen của trí óc, Hạnh không còn thấy con tầu lên xuống nhưng cơ thể của Hạnh không thể nào không báo cho trí óc biết là con tầu chao động dữ dội. Hạnh phải cố gắng hết sức bám vào bức tường của buồng lái cho giữ thăng bằng.

Biển càng ngày càng chuyển động mỗi to. Hết đợt sóng này đến đợt sóng khác đập vào thuyền làm nó chòng chành và chúi lên nhồi xuống không ngừng. Gió thổi ào ào khắp mặt biển tạo ra sóng nhấp nhô khắp mọi nơi, càng ngày sóng càng nâng cao lên cả thước.

Ngay đến lúc Hạnh cảm thấy không còn thể nào giữ thăng bằng nổi nữa, Hạnh nghe một tiếng rất to của sóng đập vào con thuyền và rồi cả người của Hạnh bị thẩy xuống biển.  Mở mắt ra trong cái chớp nhoáng đó, Hạnh thấy con thuyền vừa bị lật và rồi cả người Hạnh chìm trong lòng biển. Đạp chân và quẫy tay loạn xạ, Hạnh trồi đầu ra khỏi mặt nước để chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng: con tầu đã bị lật hẳn sang một bên, người ta và đồ đạc nhung nhúc trên mặt nước. Cố gắng đứng nước, Hạnh hét to:

– Anh Hiếu ơi! Anh Hiệp ơi! Anh đâu rồi?

Nước. Nước, và nước. Chung quanh Hạnh ở đâu cũng có nước. Sóng đập vào mặt mũi Hạnh từ tứ phía làm Hạnh uống nước sặc sội mấy lần. Vừa há miệng húp không khí để thở thì nước ập vào miệng và mũi, Hạnh uống không biết bao nhiêu là nước. Tiếng kêu gào của Hạnh khó người nghe được cho rõ vì không những chỉ mỗi một mình Hạnh kêu gào mà khắp nơi đầy những tiếng gào thét của tất cả mọi người trên thuyền văng xuống biển tìm bố, tìm chồng, tìm mẹ, tìm con, tìm anh, tìm chị, tìm em.

– Anh Hiếu ơi! Anh Hiệp ơi! Anh ở đâu rồi?

Cố gắng bơi không uống nước, Hạnh hét lên gọi hai anh của mình.  Vừa đến lúc Hạnh hoảng sợ, nhận thức ra đây là lần đầu tiên hai anh không ở với mình lúc nguy khốn, và có lẽ mình sẽ vùi thây trên biển cả thì Hiếu bơi kế bên, gỡ cái phao trên cổ của mình treo vào cổ của Hạnh.

– Anh Hiếu nè Hạnh. Giữ cái phao, đừng để cho người khác giật. Quay mặt ngược lại hướng sóng đánh để khỏi bị uống nước biển.

Hạnh được cái phao treo vào cổ như được thiên thần trợ giúp vào đúng giây phút thập tử nhất sinh. Ráng lắng nghe lời anh đừng uống nước biển, nhưng Hạnh có cảm tưởng mỗi lần Hạnh quay mặt tránh hướng nào, sóng đánh vào mặt hướng đó. Sóng bên trái. Sóng bên phải. Sóng đằng trước. Sóng đằng sau. Chỗ nào cũng có sóng, không có cách nào Hạnh tránh không khỏi uống nước.

Cả chục người và bao nhiêu đồ đạc trên thuyền lổn ngổn trên biển. Người không biết bơi lẫn người biết bơi tranh giành bất cứ vật gì nổi trên nước, bám víu vào nó cho khỏi chết. Họ bám theo cả những người mang phao như Hạnh nên những người này vùng vẫy không để họ bám vì nếu không cả hai sẽ cùng chết. Con thuyền lật nhưng cánh vịt vẫn quay, chặt đứt người bị cuốn vào nó, máu đổ tuôn lêng láng trên biển. Chiếc thuyền lật nên dầu xăng tràn đầy trên mặt biển, bây giờ cộng thêm với máu đỏ, mỗi lần bị uống nước Hạnh có thể nếm mùi ngửi cả ba thứ. Với cái phao, Hạnh giữ thân thể mình nổi trên biển nhưng không ngờ Hạnh ở khu biển gần cuối thuyền nên chiều quay của cánh chân vịt tạo ra một sức cuốn kéo Hạnh về hướng máu đỏ lòm trên nước biển. Hạnh kinh hoàng, ráng đập chân đẩy người đi ra xa nhưng sức đập chân của Hạnh không sánh bằng lực quay của chân vịt, kéo Hạnh đến thật gần, cách chừng hai thước. Ngay lúc Hạnh tưởng đến lượt mình sẽ bị cánh vịt chặt, cả chiếc thuyền chìm hẳn xuống dưới nước, và rồi mất dạng hoàn toàn.

Chung quanh Hạnh mười phút trước hỗn độn sống động với tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng khóc ràn rụa, tiếng đồ đạc chạm vào nhau vì sóng biển, tiếng van xin của những người không có phao “làm ơn cho tôi một cái phao cho tôi sống” , bây giờ chỉ còn yên lặng của tiếng  sóng đập. Hầu hết mọi người không biết bơi hay không đứng nước được nên đã chết đuối. Xác người nổi khắp nơi. Xác con nít. Xác người lớn. Xác ông cụ. Xác bà già. Xác đàn ông. Xác phụ nữ. Xác thanh niên. Xác thiếu nữ. Tất cả xác chết trôi lềnh bềnh đan với nhau như là một lớp nệm trên mặt biển.Thỉnh thoảng xác chết trôi dạt đập vào Hạnh làm Hạnh phải lấy tay đẩy nó đi ra xa.

Tiếng người gọi nhau ơi ới bây giờ đã dứt hẳn. Hiếu ở ngay sát bên, nhưng Hạnh vẫn không thấy Hiệp. Một anh trai trẻ bơi đến gần hai anh em,  Hạnh nhận ra ngay nó. Không biết nó tên gì nhưng Hạnh quen nó trên thuyền, gọi nó là thằng Bò. Nó chắc thuộc gia đình chài lưới nên bơi giỏi, cùng đứng nước chung với Hạnh và Hiếu. Những lúc nào Hạnh mệt quá muốn buông thả, nó với Hiếu thay phiên nhau cổ võ cho Hạnh ráng lên đừng bỏ cuộc, sẽ có tầu đến cứu.

Cái phao Hạnh mang trên cổ có một lỗ xì nhỏ nên cứ lâu lâu Hạnh phải thổi vào cho nó phồng trở lại. Vừa bị uống nước, vừa phải mất sức tranh đấu thổi phồng cái phao, mỗi lần thổi là mỗi lần uống nước nên đứng nước một lúc lâu sau, Hạnh không còn sức lực nào nữa hết. Quay qua Hiếu, Hạnh nói:

– Anh lấy phao của em mang nhe. Em không còn sức bơi được nữa. Anh đừng lo cho em vì em sẽ gặp anh Hiệp. Anh ráng sống về nhà nói với bố mẹ là anh Hiệp và em thương bố mẹ và cám ơn bố mẹ đã nuôi nấng mình nên người.

Nói xong, Hạnh kéo phao ở cổ của mình ra đưa cho Hiếu. Hiếu và thằng Bò cùng một lúc ghì phao lại ở cổ Hạnh, không cho Hạnh gỡ ra, và dùng tay phụ giữ thân thể Hạnh đứng trên nước. Hiếu la lên: 

– Em có điên không? Anh còn sức bơi được. Anh không cần phao. Em ráng một tí nữa thôi, thế nào rồi cũng có tầu đến cứu. Mình sẽ gặp lại bố mẹ, em đừng nói quẩn như vậy.

Nói xong, Hiếu thổi cái phao của Hạnh cho nó phồng trở lại. Nghe theo anh, Hạnh  ráng đứng nước thêm mười phút nữa, nhưng đến một lúc Hạnh nghĩ thôi thà chết cho xong vì không còn nghị lực đập chân cho người mình nổi trên nước.  Hạnh nghĩ bụng đến lúc đó Hạnh sẽ buông người đón nhận cái chết để Hiếu không còn mình để bận tâm, chú trọng cho sự sống còn của chinh anh ấy. Đang suy nghĩ bông lung, Hạnh nghe tiếng người la lớn: 

– Cho cái cô đó lên trước đi!

Qua ánh nước lờ mờ tràn đầy trên mặt, Hạnh thấy có một thanh gỗ ai đưa trước mặt mình. Một người nào, có lẽ là Hiếu, nhấc tay Hạnh lên để Hạnh cầm lấy thanh gỗ đó. Lấy hết sức tàn, Hạnh đưa hai tay nắm lấy nó và rồi có một lực thật mạnh kéo thanh gỗ và Hạnh đến một chiếc ghe trên biển.

Ở trên ghe hai người đàn ông kéo Hạnh lên, để Hạnh nằm trên sàn tầu và rồi Hạnh nghe tiếng ai nói tiếp:

– Còn hai cô kia nữa kìa. Kéo hai cô đó lên trước đi.

Nằm trên ghe mà Hạnh thấy lạnh vô cùng. Chưa bao giờ Hạnh thấy lạnh như bây giờ. Rồi tự nhiên Hạnh thấy Hạnh như là cái vòi nước, nước trong người phun ra từng vòi, thật là nhiều nước mà Hạnh không biết ở đâu ra. Có người nào đến đắp chăn cho Hạnh, và loáng thoáng có tiếng người nói: 

– Mấy người hôm nay số hên lắm mới gặp ghe của tui đó. Mấy hôm nay biển động, dân đánh cá chuyên nghiệp như tụi tui đâu có ai ra biển đánh cá, nguy hiểm lắm vì sợ thuyền lật. Hồi sáng này tui cãi lộn rầm trời với vợ tui,  tui tức quá mới rủ hai đứa con ra biển cho khuây khỏa. Ra tới đây tui thấy có mấy chấm đen nhấp nhô nên cho thuyền đến gần thì thấy mấy người nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Tui cứu có bao nhiêu đây người, chắc mấy người kia  chết chìm hết rồi.

– Dạ chết nhiều lắm anh ơi. Chúng tôi thật lòng cám ơn anh đã cứu chúng tôi thoát chết.

– Bây giờ như vầy, lát nữa tui chở mấy người vào bờ, tui phải khai thiệt với công an là mấy người đi vượt biên rồi đắm tầu. Tui đi đánh cá gặp nên tui vớt mấy người lên, chứ không thôi tụi nó tưởng tui đồng lõa với mấy người thì mệt tui lắm.

– Dạ anh nói sao thì chúng tôi nghe vậy.

– Vô trong đó gặp công an thì mấy người biết rồi chứ gì, tụi nó sẽ lục soát người lấy hết tiền bạc vòng vàng nên thay vì để tụi nó lấy, mấy người làm ơn còn dấu bao nhiêu thì cho tui xin đi.

– Tụi nó không xét anh sao? 

– Ủa, tui là dân đánh cá, tui có đi vượt biên đâu mà tụi nó xét. Xét là xét mấy người kìa.

Mọi người nghe anh chủ thuyền vừa cứu mình nói có lý, nên ai còn dấu vàng bạc gì trong áo quần, trong người lấy ra đưa hết cho anh ta. Thế nhưng vì thuyền lật, đứng nước vài giờ trong biển cả, người giấu vàng vòng nhiều nhất là phụ nữ đa số đã chết hết nên tiền của người được cứu sống, mười một người, tất cả gom góp lại cũng chẳng có là bao nhiêu. Hạnh nghe anh chủ tầu thất vọng nói:

– Ủa có bao nhiêu đây thôi hả?

Chiếc tầu chạy vào bờ, và cũng như bao nhiêu lần vượt biên thất bại khác, công an đã đã đợi sẵn trên bãi biển. Mọi người nằm la liệt trên ghe vì sức lực đã tiêu tán chống chọi tử thần trên biển cả nên khi ghe đến bờ, không ai còn sức đứng lên để xuống tầu.

Gặp Công An

Anh chủ ghe xuống nói chuyện, rồi Hạnh nghe tiếng công an quát tháo: 

– Còn nằm chờ gì nữa, xuống ngồi dưới đất hết nhanh lên!

Những người đàn ông còn sức, trong đó có cả anh Hạnh, Hiếu, bắt đầu dìu người yếu sức xuống thuyền. Đến lượt Hạnh, vừa dìu được xuống bãi cát, Hạnh ngã ra thiếp đi một giấc ngắn. Người Hạnh mềm như bún, cơ thể buông thõng  nhoài người trên cát, tay chân tê liệt không thể nào nhúc nhích nổi. Trí óc Hạnh mơ mơ màng màng, lúc tỉnh, lúc không, lúc nghe người ta nói lõm bõm, lúc thiếp ngủ không biết một tí gì. 

Trong giấc ngủ chập chờn đó, Hạnh thấy tay của mình có người lay đi lay lại, rồi có tiếng nói của Hiếu:

– Hạnh, anh nè, anh Hiếu nè. Không có anh Hiệp trong những người sống sót ở đây, chắc là  anh Hiệp chết rồi. Anh thấy lúc anh Hiệp xuống trở lại hầm  tầu để kéo người khác lên boong thì tầu lật. Không cách nào anh ấy sống được. 

Hạnh muốn trả lời nhưng không nói được, và rồi Hạnh nghe tiếng anh Hiếu khóc sụt sùi.

– Hai anh em mình thế nào cũng bị giam ở hai nơi khác nhau. Nếu em có cơ hội thì tìm cách trốn nhe.

Không nghe thấy Hạnh trả lời, Hiếu lay cơ thể bất động của em mình mãnh liệt hơn, kề mồm vào tai gọi tên em, và nhắc lại nhiều lần lời đã nói.

Hạnh muốn nói với anh là đã nghe lời anh dặn, nhưng chỉ có bộ phận óc Hạnh còn làm việc, tất cả bộ phận khác đều bị tê liệt. Hạnh nghe tiếng công an hỏi tên từng người để lập biên bản giải vào trại giam. Khi đến gần Hạnh thì tiếng người công an nói:

– Ủa tưởng ai, hóa ra là anh em tụi bay! Tụi bay mới bị bắt ở tù mấy tháng mà bây giờ lại đã tìm đường trốn đi vượt biên nữa! Thằng Hiếu với con Hạnh đây nè! Ủa, rồi còn thằng Hiệp đâu? Tụi bay đi lúc nào cũng ba đứa, tao bắt lúc nào cũng ba đứa cơ mà? Hay là thằng kia chìm ngoài biển rồi?

– Dạ anh tui đã bỏ thây ngoài biển khi thuyền bị sóng đánh lật. Hiếu trả lời.

– Hai đứa này khỏi cần làm hồ sơ vì tụi nó đã có hồ sơ ở đây rồi. Anh công an quay qua nói với người phụ tá bên cạnh.

Trong đám người sống sót chỉ có ba cô con gái, một trong ba cô là Hạnh, và cả ba còn nằm miên man trên bãi cát. Thấy người công an nhận ra anh em mình, Hiếu nghĩ là có cơ hội hắn ta dễ dãi với Hạnh nên cùng với những người đàn ông khác năn nỉ với anh công an để Hạnh còn có hy vọng trốn:

– Cán bộ làm ơn cho ba cô này vào bệnh viện chữa trị. Sức họ còn quá yếu, giải vào trại giam thì tội nghiệp.

– Cho tụi nó chết luôn. Ai bảo đi vượt biên làm gì? Anh công an nói.

Hiếu vẫn nài nỉ:

– Cán bộ  bắt tụi tui là đàn ông con trai được rồi, nhưng mấy cô con gái cần có bác sĩ chữa trị cho bình phục trước khi vào trại giam, xin làm phước cho họ. Trước sau gì họ cũng đi tù mà. 

Hạnh nghe đến đó lại ngủ thiếp đi cho đến khi tiếng lọc cọc của bánh xe làm Hạnh tỉnh dậy. Hạnh biết là mình đang nằm trên một phương tiện chuyên chở nào đó vì biết là mình nằm trên một tấm phản đang được kéo đi. Mở mắt to ra một tí nữa, Hạnh thấy hai cô kia nằm ở bên cạnh mình. Chiếc xe Hạnh đang nằm là một chiếc xe bò đang được một chiếc xe gắn máy kéo.

Gió hây hây thổi khi xe chạy làm Hạnh cảm thấy dễ chịu. Cái xe chỉ là một tấm phản có hai bánh. Mở mắt nhìn lên trời thấy vài con chim bay lượn, Hạnh ước gì mình được như nó đập cánh bay ra khỏi nơi giam cầm bao quát này.

Xe chạy chầm chậm rồi dừng hẳn lại trước một bệnh viện. Hạnh muốn ngồi dậy nhưng dậy không nổi. Hạnh nghe tiếng một người nói:

– Cho ba đứa này nhập viện rồi ngày mai nếu chúng nó khỏe sẽ giải qua trại giam

Một cô y tá và một người đàn ông đến đỡ Hạnh đứng lên. Hạnh choàng tay qua cổ của hai người, tựa vào họ đi lết vào trong bệnh viện, quẹo chỗ này, quẹo nơi kia, cuối cùng đến một căn phòng có năm chiếc giường, bên ngoài cửa có một người công an ngồi. Họ dìu Hạnh nằm xuống trên một giường và bỏ đi ra ngoài. Quá kiệt sức, Hạnh ngủ tiếp.

Tiếng la hét đâu đây văng vẳng bên tai làm Hạnh thức giấc. Hé mắt ra nhìn, Hạnh sửng sốt giật mình khi thấy một gương mặt đầy máu của một bệnh nhân nằm kế giường Hạnh. Đầu anh ta có nhiều miễng chai cắm khắp nơi, máu tuôn xối xả trên gương mặt. Máu chẩy đầy xuống  giường anh ta nằm và nhỏ giọt rớt xuống đất. Anh ta hét oai oải nhờ ai đến cứu anh ta lập tức vì quá đau đớn. Khiếp đảm với cái gương mặt đầy máu, Hạnh nhắm mắt lại. Một chốc sau Hạnh nghe có tiếng bác sĩ y tá đến chữa trị cho anh ta. Hạnh lại thiếp vào giấc ngủ.

Ngủ không biết bao lâu, Hạnh thức giấc. Trời đã tối om, căn phòng cũng tối, sáng leo lét nhớ cài đèn néon ở hành lang chiếu vào. Chiếc đồng hồ trên tường chỉ 12 giờ đêm. 

Liếc mắt nhìn về phía cái cửa ra vào duy nhất, Hạnh thấy có một chiếc ghế ngay sát cửa nhưng người công an không còn  ngồi ở đó.  Bây giờ Hạnh chỉ muốn trốn về nhà  báo cho mẹ biết là chuyến đi không thành để mẹ không phải trả phần tiền còn lại. Hạnh tá túc nhà thường dân hai đêm, đêm nay đã là đêm thứ ba. Người tổ chức chuyến đi vượt biên này chắc chắn mai kia sẽ đến nhà đòi mẹ Hạnh trả tiền, nghĩ rằng chuyến đi đã được êm thắm.

Người công an không còn ở cửa, không có ai canh gác bệnh nhân. Đây là cơ hội duy nhất để cho Hạnh thoát thân, nếu không thì làm sao dịp may nghìn vàng như thế này chắc gì sẽ xẩy đến lần thứ hai. Hạnh nhất quyết phải bỏ trốn ngay bây giờ. Ngồi bật người dậy, theo thói quen Hạnh nhìn xuống đất tìm đôi dép nhưng sực nhớ ra ban sáng vào đây Hạnh đi chân không vì dép đã mất trên biển. Chân đặt xuống đất, Hạnh vừa định tiến ra cửa thì có tiếng của một người đàn ông làm Hạnh giật bắn người:

– Cô tỉnh rồi hả?   

Tiếng nói đến từ chiếc giường bệnh kế bên, nơi bệnh nhân là anh máu me đầy mặt. Trong bóng tối, bây giờ Hạnh mới thấy có một người đàn ông, người mới hỏi Hạnh, ngồi ở chiếc ghế cạnh đầu giường. Anh ta có lẽ là thân nhân ngồi chăm sóc người máu đầy mặt. Chỗ anh  ta ngồi tối tăm, và vì trí óc Hạnh chỉ chú trọng ra phía cửa tìm đường tẩu thoát nên không để ý đến có người khác trong phòng. Hạnh hoảng hồn, lúng túng nói:

– Dạ, dạ, xin anh  làm ơn làm phước đừng nói cho ai biết tui đã tỉnh, để tui đi.

– Thằng công an nó vẫn còn gác ở cửa, cô đừng tưởng là nó không canh. Nó mới bước ra bên ngoài hút thuốc. Tôi nghe thì hình như nó đang nói chuyện với ai ở ngoài đó. Cô bước ra cửa bây giờ là sẽ bị nó bắt ngay. 

– Dạ cám ơn anh. Tui cám ơn anh nói cho tui biết chứ nếu không tui đi ra thì đã bị công an bắt rồi.

Nói xong, Hạnh tiu ngỉu nằm xuống. Lúc nãy nhìn ra cửa thấy cái ghế trống, Hạnh nghĩ cơ hội tẩu thoát quá dễ dàng làm Hạnh mừng thầm trong bụng. Bây giờ nghe anh bên cạnh nói có công an ngồi gác làm Hạnh thất vọng não nề. Làm cách nào trốn đi được? Suy nghĩ luẩn quẩn, Hạnh lại thiếp vào giấc ngủ.

– Cô ơi cô, dậy đi.

Tiếng người đàn ông bên cạnh nói se sẽ làm Hạnh thức giấc. Nhìn đồng hồ, Hạnh thấy bây giờ đã là ba giờ đêm.

– Thằng công an ngủ rồi. Lúc nãy cô trốn không được nhưng bây giờ cô đi được rồi đó.

– Dạ cám ơn anh. Coi như anh đừng thấy tui, để tui đi thì khỏi liên lụy gì đến anh.

– Không sao, để tui chỉ đường cho cô đi chứ làm  sao cô biết lối ra.

– Dạ cám ơn anh.

– Khi cô vừa ra khỏi cái cửa này thì quẹo tay trái. Đi đến cái chỗ xeo xéo khúc bờ đất có một cái cửa, cô mở cửa vào, đi qua hết hành lang thì sẽ thấy cổng chính ra vào của bệnh viện.

– Dạ khi ra khỏi bệnh viện rồi thì lối nào ra bến xe?

– Đi bến xe Vũng Tầu thì cô dùng đường bên phải. Đi đến con đường thứ ba, khi cô thấy cái nhà ở góc đường có hai thùng phi lớn để trước sân thì  quẹo phải nữa. Cô đi chừng nào thấy có một khu đất có ao trồng rau muống thì quẹo trái, đi bộ miết là đến.

Kết Chuyện

Hạnh nghe anh ta chỉ nhiều quá đã thấy nhức đầu nên ngoài mặt dạ dạ cảm ơn nhưng trong bụng Hạnh chỉ tập trung vào việc trước nhất là tìm đường ra khỏi bệnh viện bây giờ. Nói cảm ơn lần cuối cùng, Hạnh theo lối anh ta chỉ dẫn và mò đến cổng bệnh viện. Hạnh chưa kịp mừng thì đã khựng lại khi thấy hai cổng bệnh viện đã bị khóa bằng một xích sắt!

Tuy rằng trời tối đen và không có một ai, Hạnh đứng sát vào tường vì sợ người khác phát giác. Hạnh đứng  nhìn chằm chặp vào cổng sắt và cái tường cao nghệu để xem có lối nào đi ra hay không. Phần đất bên trong này tường đầy những cây to trồng sát bờ tường, và ở một cái cây to gần cổng, trong chỗ tối tăm nhất, Hạnh thấy loáng thoáng như có một sợi dây treo toòng teng. Đến gần quan sát, Hạnh thấy đúng là một sợi dây thật, nhưng Hạnh không thấy đầu dây treo từ đâu vì khi ngước mắt nhìn lên theo sợi dây, nó biến mất trong bóng tối.

Cầm sợi dây,  lấy hết sức giật xuống vài lần mà không thấy nó lay chuyển nên Hạnh tự tin là có thể leo lên mà không bị đứt dây ngã xuống. Mấy năm trước trong trường tập thể dục họ bắt leo dây, Hạnh mới đầu leo không được vì cứ bị tuột, nhưng sau khi  họ dậy cho Hạnh phải gài hai đùi chân vào dây, khóa hai bàn chân  cho khỏi bị tuột rồi với tay kéo người mình lên, Hạnh tập theo đó mấy lần thì đã có thể leo lên đến đỉnh. Bây giờ nhìn sợi dây, Hạnh rất tự tin là mình sẽ leo được. Hơn nữa, bây giờ nó là cơ hội duy nhất để Hạnh thoát ra bên ngoài, không còn một lối thoát nào nữa. Hai tay chụp sợi dây, Hạnh bắt đầu kéo mình lên trên cao. Khi đứng ở dưới nhìn lên trên tối om, Hạnh không biết cái dây đi đâu nhưng leo chỉ vào khoảng ba thước, Hạnh đã thấy nó cột vào một cành cây to. Leo lên ngồi trên cành cây quan sát, Hạnh thấy chỗ ngồi của mình  cao hơn cái cổng nhưng cái cổng còn cách chỗ ngồi của Hạnh hơn một thước và ở trên cùng có hàng rào kẽm gai quấn chạy dài dọc theo cả bờ tường. Định cứ mặc kệ cho kẽm gai cắt rồi tuột xuống cổng nhưng suy nghĩ lại Hạnh thấy đó là một ý nghĩ điên rồ. Ngồi nán lại vài phút, Hạnh lo ngại người công an hút thuốc xong có thể vào bên trong phòng kiểm điểm rồi khám phá Hạnh biến mất nên sẽ đi tìm. Vì thế, Hạnh mon men theo cành cây bò ra phía đầu cành. Cái cây trồng rất gần tường bệnh viện, trong đêm không thấy nhưng Hạnh đoán nó rất to, với cành cây chĩa  khỏi bờ tường ra phía bên ngoài. Đến đoạn cành vừa qua khỏi cái cổng,  qua khỏi hàng rào kẽm gai chạy dọc  trên cổng và trên tường, Hạnh nhìn xuống đất. Trời tối om Hạnh không thấy ở dưới đất là gì: vỉa hè? đất cát? đá sỏi? Chần chừ vài giây phút, nghĩ rằng không còn đường nào nữa, chỉ còn lối duy nhất là nhẩy xuống thì sẽ ra bên ngoài bệnh viện nên nhắm mắt liều mình, Hạnh nhẩy xuống.

Bộp! Chân vừa chạm đất, Hạnh ngã lăn kềnh nằm dài người trên mặt đất. Hạnh nằm án binh bất động vì nghĩ rằng mình rất có thể bị trặc cổ chân vì độ cao từ cành cây xuống mặt đất. Tốt nhất là nằm nghỉ một tí cho cổ chân đỡ đau rồi hãy đứng lên. Thế nhưng khi cựa quậy bàn chân, Hạnh không thấy  đau gì cả nên ngồi dậy. Chống tay đỡ mình ngồi lên, Hạnh mới biết lý do tại sao mình không bị đau: chỗ Hạnh nhẩy xuống là một đống đất.  Mừng thầm là chân tay không bị hề hấn gì, Hạnh tiến hành ra bến xe. Bây giờ chắc chỉ vào khoảng ba giờ rưỡi đêm, Hạnh đi trong đêm thì sẽ không ai để ý.

Cất bước đi bộ về phía tay phải như anh ở trong bệnh viện chỉ bảo, Hạnh cố tập trung tư tưởng để nhớ lại lối hướng dẫn ra bến xe đò. Nhà cửa trên đường tắt đèn tối thui, thỉnh thoảng tiếng dế kêu đây đó. Hạnh nhủ thầm đừng có tiếng chó sủa đánh thức người ta dậy, họ sẽ phát giác ra có người đang đi trên đường. Đi độ mười  phút, Hạnh có cảm tưởng có tiếng chân người đi bộ phía sau mình nên quay đầu nhìn ra phía sau. Hạnh đoán không sai vì có bóng dáng của một người đi bộ từ xa đang đi đến, thế nhưng vì trời tối om, Hạnh không biết là ai. Chắc có lẽ công an đã phát giác ra Hạnh bỏ trốn nên chạy đi tìm mình chứ ba giờ rưỡi khuya mà ai đi bộ trong đêm? Sợ hãi với ý nghĩ đó, Hạnh bước đi thật nhanh. Nhưng nhanh bao nhiêu thì cái bóng đen cũng đi nhanh hơn Hạnh và càng ngày nó càng rút bớt khoảng cách giữa Hạnh và nó. Hạnh sợ quá nên bắt đầu bỏ chạy. Bóng đen đằng sau chạy rượt theo. Tim Hạnh đập thình thịch, cố lấy hết sức mình nhấc chân thật là nhanh, người thở hổn hển. Bóng đen càng ngày đến càng gần và rồi Hạnh nghe tiếng một người đàn ông nói:

– Cô ơi cô đừng chạy!

 Thôi đúng là công an rồi! Muốn chạy nhanh hơn nữa nhưng chân Hạnh quíu lại. Người đằng sau cuối cùng chạy đến bắt kịp và nắm lấy cổ tay Hạnh.

 – Buông tui ra! Hạnh hét lên nho nhỏ vì sợ đánh thức những nhà dọc ở bên đường.

 – Tui nè cô ơi! Tui là Trung hồi nãy nói chuyện với cô trong bệnh viện chứ không phải người lạ nào đâu. Cô đừng có sợ.

Hạnh nghe người lạ trấn an, nhìn kỹ thì đúng là anh chàng lúc nãy chỉ Hạnh đường trốn ra khởi bệnh viện. Trung nói tiếp:

– Lúc nãy sau khi chỉ lối cho cô đi, tui ngồi canh thằng em tui một lúc, không thấy cô trở lại, nghĩ là cô đã đi rồi nên tui đi ra cổng xem sao. Nhưng khi ra đến cổng thì tui thấy cổng khóa mà không thấy cô. Tui nghĩ là không thể nào cô ra khỏi được nên tui đi khắp bên trong bệnh viện kiếm cô nhưng kiếm hoài không thấy. Thành ra tui nói với công an gác cổng mở cửa gấp cho tui về. Ra khỏi bệnh viện tui nhớ đã chỉ đường cho cô ra bến xe đò nên tui đi theo con đường này thì gặp cô ở đây. Làm sao cô ra khỏi bệnh viện được vậy?

Hạnh kể cho Trung nghe cách Hạnh rời bệnh viện, rồi sợ anh ta theo mình, nên nói chận trước: 

– Tui rất cám ơn anh đã chỉ đường cho tui đi ra. Bây giờ tui đi một mình đươc rồi…

– Cô có người quen ở đây không? Bây giờ cô có biết đường ra bến xe không?

– Anh có chỉ tui rồi, tôi sẽ cố nhớ đường anh chỉ….

– Cô có tiền mua vé không mà ra bến xe?

Nghe anh ta hỏi, Hạnh mới tỉnh ngộ là mình không có tiền:

-Thôi bây giờ anh cho tui mượn tiền đi. Khi tui về SàiGòn rồi thì mai mốt tui  sẽ trở lại đây, đến nhà anh trả lại tiền anh cho tui mượn.

-Bây giờ cô không ra bến xe đò được đâu. Người cô tóc tai bù xù, quần áo xốc xếch dính bùn, rách rưới, ai gặp cô là sẽ biết cô đi vượt biên liền. Từ đây ra bến xe cũng còn xa, dân phòng thấy là họ sẽ bắt cô. Bây giờ cô đi về nhà tui tắm rửa thay quần áo xong rồi cô muốn đi đâu thì đi. Tui có một cô em gái ở nhà, nó sẽ đưa cho cô quần áo mới mặc.

Hạnh đứng suy nghĩ anh ta nói cũng có lý là bây giờ không cách nào Hạnh ra bến xe đò vì không có tiền, và người ngợm như thế này thì người ta sẽ phát giác Hạnh là dân vượt biên. Đường xá bây giờ vắng hoe, anh ta có dùng sức mạnh bắt Hạnh, Hạnh cũng không có sức chống cự lại được nên thôi cứ theo anh ta về nhà thử xem sao.

-Rồi tui đi với anh.

Khi gần đến nhà, biết Hạnh sợ không dám theo anh ta vào nhà nên Trung ngừng trước nhà khoảng hai mươi thước, chỉ cho Hạnh căn nhà mầu xanh là nhà của anh ấy, nói với Hạnh đến gõ cửa, sẽ có em gái của anh ta tên là Kim ra mở cửa thì Hạnh nói với Kim là ra đây gặp anh ta.

Hạnh làm như lời anh ta chỉ, đến gõ cửa nhà mấy lần thì có một cô gái ra mở cửa:

– Dạ có phải cô tên Kim không ạ?

– Tui là Kim đúng rồi. Đêm khuya cô tìm ai?

– Anh của cô đứng ngay đó -Hạnh xoay người chỉ về hướng Trung đứng, nói cô ra gặp anh ấy có chuyện nói.

 Kim mở cửa, đi  ra gặp anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau rồi Kim trở lại vào nhà, lấy một bộ quần áo đàn bà và một đôi dép đưa cho Hạnh:

 – Anh tui nói đưa cho cô mượn một bộ đồ. Cô đi ra sau tắm, đừng tắm nhiều nước vì nước mới gánh về.

Hạnh cầm bộ quần áo ra phía sau nhà. Ngay giữa sân là nhà tắm, bốn chung quanh che bằng lá. Bật đèn lên, Hạnh thấy treo trên một thanh gỗ là một chiếc gương. Nhìn mặt mình trong gương, Hạnh mới giật mình thấy mình không phải là một người bình thường: da mặt Hạnh đỏ sần sùi vì gian nắng, tóc Hạnh rối bù, và nhờ cái gương mà Hạnh thấy tóc mình  mượt óng ánh dầu xăng của thuyền đổ ra trên biển. Bây giờ Hạnh mới thấy anh kia nói đúng: ra đường thế nào Hạnh cũng bị dân phòng phát hiện là dân vượt biên. Dội vội vài gáo nước và chải mớ tóc bù xù cho đỡ rối một tí, mặc bộ quần áo mới Kim đưa, mang vào đôi dép mới, Hạnh đi ra gặp Trung nãy giờ vẫn đứng chờ ở xa mà không vào  nhà của mình.

– Cám ơn anh đã giúp tui quá nhiều rồi. Bây giờ anh cho tui mượn tiền đi xe đò về SàiGòn, rồi anh cho tui địa chỉ, sau này tui sẽ trở lại nhà anh để trả anh tiền. Hạnh nài nỉ vì dè dặt, không biết Trung là người như thế nào.

– Làm sao mà cô  ra bến xe một mình được. Bây giờ cô đợi ở đây, tui về nhà lấy xe gắn máy chở cô ra bến xe.

Không nghe Trung nói gì về việc cho mình mượn tiền để đi mua vé xe một mình, Hạnh đành phải nghe theo lời đứng đợi. Một chốc sau, Trung chạy đến trên một chiếc xe gắn máy cũ kĩ, bảo Hạnh leo lên rồi chở Hạnh ra bến xe.

Lúc này trời đã sáng. Chạy đến một quán nước đối diện bến xe, Trung bảo Hạnh theo mình vào quán ngồi. Trung mua một ly sữa, đưa cho Hạnh:

– Cô uống đi. Tui biết mấy ngày rồi cô chưa ăn uống gì hết. Từ lúc vào bệnh viện đến giờ, tui thấy người ta đâu có cho cô ăn cái gì đâu. Bây giờ cô uống sữa cho lấy lại sức.

Anh ta lấy một mẩu giấy, viết tên và địa chỉ của mình đưa cho Hạnh rồi bảo Hạnh cho anh ta biết tên và địa chỉ của Hạnh. Hạnh thâm tâm bối rối, không dám cho anh ta biết địa chỉ nhà mình vì anh ta là người lạ, và vì sợ có thể anh ta là công an, sau này đến nhà Hạnh làm khó dễ vì mình đi vượt biên. Hạnh  viết tên và địa chỉ giả rồi đưa lại cho anh ta. Trung cầm tờ giấy đọc: 

– Cô tên Hằng hả?

– Dạ tui tên Hằng.

– Cô khỏi cần đến thăm tui. Mai mốt tui lên SàiGòn thăm cô. Bây giờ mình ngồi đây chờ cho đến 10 phút trước khi xe chạy thì tui dẫn cô qua đường lên xe. Tui biết giờ xe đò khởi hành nên cô đừng lo.

Ngồi chừng 15 phút sau, Trung bảo Hạnh đứng lên đi theo anh ta. Đến trước xe đò, anh ta bảo Hạnh đứng đợi, rồi lên xe nói chuyện với người tài xế. Một lúc sau, từ trên xe anh ta ngoắc cho Hạnh lên xe và rồi dẫn Hạnh ra phía sau xe đò. Thời bấy giờ không có xăng nên xe cộ biến chế lại chạy bằng than. Phía sau xe đò chứa đủ thứ vật liệu than củi. Trung nói:

– Cô ngồi ở đằng sau này, đừng đổi chỗ. Ở chỗ này xa cửa trước, không ai chú ý hết. Tui sẽ đi theo xe với cô vì hiện giờ công an đang chận xét xe ở cầu Cỏ May. Họ đã phát giác cô bỏ trốn bệnh viện nên xét xe bắt cô ở đó. Ai bây giờ nhìn cô là cũng biết cô đi vượt biên vì da mặt cô nám đỏ nắng. May là cô có dép mới mang , chứ nếu em tui không đưa dép cho cô thì bảo đảm ai thấy cô sẽ bắt liền. Tui chỉ đi với cô đến trạm ở cầu Cỏ May thôi vì sau đó là không có trạm gác xét nữa, xe sẽ chạy một mạch về SàiGòn. Lý do tui  đi với cô vì tui là trưởng đồn công an ở cầu Cỏ May, công an ở trạm gác sẽ tin tui .

– Dạ tui cám ơn anh thật nhiều đã có lòng lo lắng cho tui. Ơn của anh muôn đời tui không bao giờ quên.

– Cô về nhà rồi nhớ đừng quên tui. Cô không cần trả tiền xe vì tui đã trả cho cô rồi.

Nói xong, khi xe đò lăn bánh, Trung ra đứng ngay ngưỡng cửa như lơ xe đò. Xe chạy năm, mười phút thì đến cầu Cỏ May. Công an đứng gác ở cầu, ra hiệu cho xe đò ngừng lại. Tim Hạnh đập thình thịch khi thấy Trung xuống xe, đứng nói chuyện với công an. Thời gian trôi qua quá chậm, dài đăng đẳng làm Hạnh sốt cả ruột nhưng rồi Hạnh thấy Trung trở lại xe, vỗ vào bên hông xe đò và nói với người tài xế:

– Xong rồi, đi đi!

Chiếc xe rồ máy chạy, bỏ dần Trung lại ở trạm xét. Hạnh trút đước gánh nặng nghìn cân, ngủ mãi trong xe trên đường về.

Đi bộ về nhà Hạnh bây giờ mới tỉnh táo để nghĩ đến hai anh. Nước mắt Hạnh cứ tuôn rơi khi biết rằng sẽ không bao giờ gặp lại anh Hiệp của mình trong suốt cuộc đời nữa. Về đến nhà, đứng trước cửa gõ cửa mà Hạnh không biết làm sao nói với bố mẹ là Hiệp đã chết để hai người không thống khổ ngã ra bất tỉnh. Cánh cửa vừa mở thì Hạnh thấy bố mẹ đứng trước cửa, mẹ ôm chầm lấy Hạnh khóc ngất. Hạnh rất ngạc nhiên vì đi vượt biên cả chục chuyến, mỗi lần hụt chuyến nào khi Hạnh về nhà thì không bao giờ thấy mẹ Hạnh khóc. Hôm nay mẹ Hạnh lại khóc như mưa. Cầm hai bả vai của Hạnh, mẹ Hạnh lắc con: 

– Hai anh con Hiếu với Hiệp đâu rồi?

Hạnh vừa định mở lời, nhưng vì quá xúc động nghĩ đến Hiệp đã chết nên nói lắp bắp:

– Anh Hiếu bị bắt rồi, còn anh Hiệp…

– Anh Hiệp con sao rồi? Anh con chết rồi phải không? Mẹ Hạnh khóc như điên dại.

– Hai tối trước mẹ nằm mơ thấy anh Hiệp quần áo ướt sũng đến nằm dưới gầm giường mẹ mà không nói gì hết. Mẹ cứ thắc mắc là tại sao Hiệp nó không nói gì hết. Anh Hiệp ra sao rồi hả con? Mẹ Hạnh lắc Hạnh nữa.

– Dạ… anh Hiệp chết rồi mẹ ơi! Anh Hiệp của con chết rồi! Anh Hiệp ơi, sao anh bỏ anh Hiếu với em? Sao anh không về với bố mẹ? Anh Hiệp ơi! Hạnh gào thét gọi tên anh.

– Hiệp con tôi ơi! Sao con bỏ mẹ đi như thế này! Mẹ Hạnh khóc ngất kêu tên con rồi bất tỉnh.

Hạnh phụ bố dìu mẹ, đặt mẹ vào giường. Hạnh ngồi kế bên nắm tay an ủi mẹ khi mẹ tỉnh dậy khóc vật vã nhớ con trai. Năm năm trời bố mẹ Hạnh hy sinh ở lại, không màng mất bao nhiêu của cải hy vọng ba đứa con của mình thoát khỏi Việt Nam.  Năm năm trời ba anh em Hạnh tìm đủ mọi cách đi tìm tự do. Năm năm trời ba anh em ăn cùng ăn, khổ cùng khổ. Năm năm trời ba anh em không biết cái chết là gì, sẵn sàng đổi mạng sống để tìm tự do. Ngày hôm nay, tuy rằng sự phân ly chia cách nghìn trùng vĩnh viễn Hạnh sẽ không còn gặp Hiệp  nữa, Hạnh  mừng cho anh cả của mình cuối cùng đã tìm được tự do ở một chân trời mới, cái tự do mà cả Hạnh và Hiếu đến giờ vẫn còn thất bại đeo đuổi đi tìm nó.

Hạnh 2012

Phụ Chú

– Thuyền Hạnh đi tổng cộng là 178 người, chỉ có 11 người sống sót, ba người là phụ nữ, theo biên bản của công an.

– Tiền mẹ Hạnh trả cho ba anh em đi chuyến Hiệp chết là 10 cây vàng. Đưa trước 4 cây. Sau khi đi ba ngày thì đưa nốt 6 cây vàng còn lại.

– Mẹ Hạnh đến địa chỉ nhà Trung trả lại tiền Trung giúp cho con của mình.

– Hạnh được một người bạn trai rời SàiGòn năm 1984  làm giấy tờ hôn thú bảo lãnh Hạnh sang Mỹ năm 1991.

– Bố Hạnh mất ở Việt Nam. Mẹ hạnh sau này được Hạnh bảo lãnh sang California.

– Hiếu lập gia đình, được gia đình vợ bảo lãnh, cùng vợ con sang Mỹ sinh sống.

– Hạnh hiện giờ sống hạnh phúc với chồng con ở Hoa Kỳ (chồng là người bảo lãnh Hạnh sang Mỹ năm 1991).

 

http://www.saigonocean.com/
November  2012

Tài liệu tham khảo:
http://www.vietka.com/DeathCasualty.htm
http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnamese_boat_people

Nguyễn Tài Ngọc

Related Articles

Vượt Biên Bằng Bè

Vượt Biên Bằng Bè

Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng…

Đọc thêm
Cụm Bèo Lục Bình

Cụm Bèo Lục Bình

Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…

Đọc thêm
SOS!Cứu chúng tôi với!

SOS!Cứu chúng tôi với!

Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.

Đọc thêm

Đội Tuyển Việt Nam Thắng Đội Tuyển Philippines 5-0

Đội Tuyển Việt Nam Thắng Đội Tuyển Philippines 5-0

Đội Tuyển Việt Nam Thắng Đội Tuyển Philippines 5-0

Hồi Ký: Đặng Thắng

 Chiều nay cả trại tị nạn Palawan tưng bừng nhộn nhịp hẳn lên, lần đầu tiên thiếu úy Pagadoan ra lệnh cho xả trại, tức người dân tị nạn Việt Nam được đi phép tự do không cần phải có giấy phép. Bình thường người dân muốn đi mua sắm ở ngoài phố cần phải có giấy phép của Trưởng Khu, mỗi khu cũng chỉ được cấp một số giấy phép giới hạn cho đồng bào ra phố mua sắm khi cần thiết. Sở dĩ chiều nay có lệnh xả trại vì có trận túc cầu giao hữu giữa đội tuyển trại tị nạn Việt Nam và đội tuyển trường trung học Philippines Puerto Princesa City. Tin tức xả trại loan truyền thật nhanh làm hầu hết đồng bào tị nạn kéo nhau đi phố luôn tiện xem thi đấu túc cầu. Đã lâu lắm mới thấy bầu không khí vui vẻ, tưng bừng, nhộn nhịp như thế trong trại tị nạn.
Nhớ lại khi mới bước chân lên trại tị nạn Palawan, bán 1 chỉ vàng được 60 pesos. Thắng đã bỏ ra 25 pesos để mua đôi giầy ba ta dùng đá banh. Máu đá banh đã ngấm vào cơ thể Thắng từ nhỏ nên Thắng rất có khiếu đá banh. Chỉ một thời gian ngắn đá banh trong trại, Thắng đã được bầu làm thủ quân đội túc cầu của trại. Thắng mê đá banh từ bé, từng đá nhiều loại banh như banh lông tennis, banh mủ, banh da…Nhiều lần sau khi tập đá banh da về, Thắng lại ra đá banh mủ với bọn trẻ trong xóm. Chính vì thế, kỹ thuật giữ banh và lừa banh của Thắng rất khéo, lừa banh chẹt rất hay nhờ hay đá banh mủ.
Trại tị nạn Palwan đời sống tương đối thoải mái nếu so với nhiều trại tị nạn ở những nơi khác như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương…Thật sự lúc đầu chúng tôi tưởng mình khổ quá nhưng sau này theo những tin tức thu nhập được, chúng tôi mới biết mình đang ở sướng hơn những trại tị nạn khác. Mỗi ngày nhiệm vụ chúng tôi chỉ đi lãnh lương thực, xách nước để vợ ở nhà nấu cơm rồi buổi chiều đi đá banh hay tắm biển. Nhớ lại lúc đó, có người em trong trại tị nạn nhận được thơ người chị bên Mỹ nói rằng:
– Em hãy sống những ngày hạnh phúc và sung sướng ở trại tị nạn đi.
Lúc bấy giờ tôi và đứa em rất bất mãn vì câu nói đó của người chị, cứ nghĩ rằng chị ấy đến Mỹ sung sướng quá lại viết thơ về chọc quê mình như thế. Nhưng bây giờ ra nước ngoài sống rồi tôi mới nhớ lại câu nói của chị ấy thật chí lý. Đời sống tị nạn chẳng lo nghĩ gì cả, lương thực đã có Cao Ủy Tị Nạn lo cho, chỉ lo nấu cơm và chiều chiều đi tắm biển hay đá banh hoặc đánh bóng chuyền, đầu óc thật vô tư không suy nghĩ hay lo lắng gì cả. Bây giờ sống ở nước ngoài mỗi tháng đều lo lắng những bills tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền gaz, tiền điện thoại đến nhức cả đầu.
Nhớ lại lúc đầu, chúng tôi còn đá banh trong trại tị nạn được. Sau này, dân số càng ngày càng đông nên chúng tôi chỉ có thể đá banh ở bãi biển nếu nước rút, còn nếu không chúng tôi không có chỗ để đá banh. Thành ra, các anh em cầu thủ phải lén lút đá banh trên sân phi đạo của phi trường Palawan gần chỗ khu 4 của chúng tôi. Trong lúc anh em đang đá banh, anh Long trong ban trật tự sợ lính Phi la nên định nghiêm cấm các anh em không được đá banh. Tôi lúc đó vừa là thủ quân đội túc cầu vừa là trưởng khu 4 nên nói với anh Long:
– Anh Long ơi! Thằng thiếu úy Pagadoan còn đứng coi anh em đá banh say đắm như thế kia, anh để anh em chơi đi, nó còn không cấm thì anh cấm làm gì.
Nét mặt anh Long trong ban trật tự chợt đăm chiêu suy nghĩ. Anh thấy tôi nói cũng có lý, thiếu úy Pagadoan trưởng trại con không cấm anh em, coi anh em đá banh say mê, anh không cần thiết cấm anh em không được đá banh trên sân phi đạo. Từ đó, chúng tôi được đá banh trên sân phi đạo thường xuyên hơn.
Một chuyện đáng nhớ về đá banh trong trại tỵ nạn chúng tôi như sau: Khu 4 chúng tôi qui tụ khá nhiều anh em cầu thủ hay nên khu 4 chúng tôi vô địch trong trại. Tình cờ, bữa hôm đó, trưởng khu 3 thách thức chúng tôi đá độ 3 cây thuốc. Ba cây thuốc lúc đó trong trại tỵ nạn rất có giá trị, tôi giật mình hoang mang suy nghĩ sao khu 3 gan vậy dám kêu chúng tôi đá độ 3 cây thuốc. Tôi hỏi anh Hoàng Lộ anh họ của tôi:
– Anh Lộ à, tụi khu 3 rủ đá độ 3 cây thuốc anh nghĩ sao?
Anh Lộ cũng nóng máu trả lời:
– Đá liền chớ sợ gì chúng nó. Cứ đá đi nếu thua anh chung cho.
Kết quả thi đấu chúng tôi đá thắng khu 3 với tỷ số 3/0. Đá xong trận đấu tôi có gặp trưởng khu 3 và hỏi:
– Sao anh gan quá vậy, dám rủ khu 4 chúng tôi đá 3 cây thuốc.
Anh trưởng khu 3 vừa đỏ mặt tức giận vừa thẹn trả lời:
– Mẹ nó, có mấy thằng trong ghe mới lên trong khu tôi nói đá cho đội túc cầu Hóa Chất, tôi nghĩ như vậy chắc ăn rồi nên mới rủ khu 4 đá độ.
Tôi có gặp người bạn trẻ đó và hỏi:
– Xin lỗi bồ đá cho Hóa Chất hở?
Người bạn trẻ trả lời:
– Em đá rờ dẹc cho đội trẻ Hóa Chất.
Tôi trả lời:
– Bồ đá rờ dẹc cho đội trẻ Hóa Chất hèn chi tôi không biết bồ, còn nếu bồ đá cho Hóa Chất chắc chắn bồ biết tôi và tôi biết bồ.
Sở dĩ tôi nói câu đó, vì thứ sáu tuần nào tôi cũng dợt trên sân Hoa Lư với đội Hóa Chất nên biết rõ thành phần cầu thủ đội Hóa Chất như Thành Gù, Tư Béo, Lý Chí Quảng .v.v..
Đúng 3 giờ chiều, xe cam nhông của quân đội Phi vào chở đội túc cầu Việt Nam ra thi đấu ở trường trung học thành phố Puerto Princesa City thuộc Palawan. Tôi nhớ mang máng thành phần đội tuyển Việt Nam lúc đó, hậu vệ trái là Hải quắn, hậu vệ phải là Hùng tóc dài, trung vệ là Dụng và anh Khả cũng lớn tuổi, tôi đá tiền vệ với anh Giấy, góc mặt là Hải (Bọn), trung phong giữa là Út, Tuấn, góc trái Đỗ Còn Em. Xin lỗi còn nhiều cầu thủ nữa tôi không nhớ hết nổi. Tinh thần thi đấu đội banh chúng tôi thật mãnh liệt, không những vì mầu cờ sắc áo mà còn tự ái dân tộc nữa.
Tôi dẫn đội banh ra chào sân, tiếng vỗ tay thật to làm tôi ngước nhìn lên khán đài, tất cả cầu thủ chúng tôi vô cùng ngạc nhiên và cảm động khi thấy trên khán đài chật ních người Việt Nam. Tiếng vỗ tay và la hét cổ vũ của đồng bào Việt Nam như nhắn nhủ chúng tôi: Phải cố gắng hết sức vì mầu cờ sắc áo và tự ái dân tộc, phải làm sao mang vinh dự về cho người tị nạn Việt Nam. Dẫu bây giờ chúng ta đang tạm thời ăn nhờ ở đậu người Phi nhưng cũng cố gắng làm gì đó để họ kính nể và khâm phục chúng ta.
Trọng tài Phi vừa thổi tiếng còi khai mạc trận đấu. Đội Phi mặc áo đỏ thật đẹp giao bóng trước, chuyền qua trung phong rồi thọc banh sâu xuống. Trung vệ Khả đánh đầu chuyền cho tiền vệ Giấy, anh Giấy tạt ngang cho Thắng, Thắng thẩy lỗ (chọc khe) cho góc mặt Hải (Bọn), góc mặt Hải chạy thật nhanh tạt banh trở về cho trung phong Út, Út đưa ngang banh cho Tuấn, Tuấn chuyền xéo cho Thắng từ dưới băng lên, Thắng gạt qua trung vệ Phi, đẩy banh xuống thật nhanh, thủ môn Phi lúng túng chạy ra, Thắng sửa banh vào góc khung thành mở tỷ số 1/0 cho đội tuyển túc cầu tỵ nạn Việt Nam. Cả cầu trường đứng bật dậy và la to lên vui mừng khôn tả, tiếng vỗ tay thật to cổ vũ cho chúng tôi, các anh em cầu thủ ôm Thắng mừng rỡ vô cùng vì đã mang vinh dự về cho đội túc cầu tỵ nạn Việt Nam.
Đội túc cầu Phi mang banh lên pass sê. Sau khi giao banh đã cố gắng vùng lên mong san bằng tỷ số nhưng hậu vệ của đội tỵ nạn Việt Nam truy cản thật dũng mãnh. Ở phút thứ 20 của trận đấu, sau một đợt truy cản, trung vệ Dụng chuyền cho hậu vệ Hải Quắn, Hải chuyền vào giữa cho Thắng, Thắng tạt ngang cho Giấy, Giấy thọc sâu cho Đỗ Còn Em bên cánh trái tuôn xuống thật lẹ, Em tạt bóng lên cho Tuấn, Tuấn kéo qua một trung vệ Philippines, chuyền cho Út từ trên băng xuống đá cú mập thật mạnh tung lưới thủ môn Philippines.
Một lần nữa cầu trường như muốn nổ tung ra, tiếng vỗ tay và la hét của đồng bào tị nạn vang lên ầm ĩ trong sân vận động. Anh em cầu thủ ôm Út sung sướng, còn niềm vui nào trong cuộc đời cầu thủ hơn lúc này phải không các bạn? Đội túc cầu Philippines bị thua 0/2 cố gắng vùng lên để rút ngắn cách biệt. Tuy nhiên, hàng thủ đội túc cầu tị nạn Việt Nam nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật nên đội túc cầu Philippines không làm gì được.
Vào phút thứ 35, nhận được banh từ thủ môn, tiền vệ Giấy giao banh cho Thắng, Thắng chuyền lên cho Tuấn, Tuấn tạt ngang cho Út, Út thọc sâu cho Đỗ Còn Em từ góc trái tuôn xuống thật nhanh. Em mang banh lên sát biên thật nhanh rồi tạt lên cho Tuấn. Tuấn lướt qua một trung vệ Phi tạt ngược lên cho Thắng từ dưới băng lên, Thắng thoát qua trung vệ phi, một tràng tiếng Phi bên tai:
– Pô tăng ti na mô (tiếng chửi thề của Phi)
Thắng lướt xuống, thủ môn Phi vội vàng nhào ra, Thắng sửa cái má mu bàn chân, banh đi xà vào góc lưới thủ môn Phi ghi thêm một bàn thắng nữa cho đội tuyển tỵ nạn Việt Nam 3/0. Cả cầu trường đứng bật dậy la hét vui mừng khôn tả. Ai cũng không ngờ được như thế. Tiếng vỗ tay không ngớt, các cầu thủ ôm nhau sung sướng vô cùng. Hết hiệp một, biết bao nhiêu đồng bào tỵ nạn lại chúc mừng vui vẻ hỏi thăm anh em cầu thủ tỵ nạn Việt Nam.
Vào hiệp 2, đội túc cầu Phi cố gắng vùng lên mong rút ngắn tỷ số nhưng không thành công vì đội tuyển tỵ nạn Việt Nam nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật hơn. Phút 70, trong một đợt phản công của đội túc cầu Việt Nam. Trung vệ Dụng chuyền banh cho Giấy, Giấy chặn banh xoay người giao cho Thắng. Thắng, Thắng thẩy lỗ cho Hải từ cánh mặt chạy nhanh xuống cuối sân, bất ngờ tạt ngược banh lên khung thành đội Phi, trung vệ Khả từ dưới lướt lên thật nhanh đánh đầu banh đi thật đẹp vào góc khung thành, thủ môn Phi phóng lên đẩy banh ra nhưng không kịp, banh đã vào góc lưới đội Phi nâng tỷ số 4/0. Một lần nữa cả cầu trường đứng bật dậy, tiếng vỗ tay la hét vang dội cả sân vận động, nhiều người ôm nhau vui mừng trên khán đài. Anh em ôm anh Khả chạy về sân nhà sung sướng trong khi đội tuyển trường trung học Philippines mệt mỏi và buồn thiu.
Đội tuyển trường trung học Philippines cố gắng tấn công để gỡ trái banh danh dự nên dốc toàn lực tấn công, cũng vì mải mê tấn công nên quên phòng thủ nên vào phút 85 hiệp hai, trong một đợt phản công, nhận được banh từ trung vệ Khả, Thắng gạt qua tiền vệ Phi từ giữa sân, mang banh xuống nữa, trung vệ Phi nhào ra truy cản, Thắng kéo banh qua khỏi trung vệ Phi, đẩy dài banh xuống, thủ môn Phi hốt hoảng chạy ra, Thắng gặt qua luôn thủ môn Phi đưa banh vài khung thành trống rỗng nâng tỷ số 5/0 cho đội túc cầu tỵ nạn Việt Nam. Cả cầu trường như nổ tung ra, tất cả đồng bào la hét vang trời. Các anh em cầu thủ ôm Thắng sung sướng, vui mừng khôn tả.
Đội túc cầu trung học Phi mang banh lên pass sê. Đúng lúc đó, tiếng còi trọng tài ré lên kết thúc trận đấu. Kết quả đội túc cầu tỵ nạn Việt Nam thắng đội tuyển trung học Philippines Puertor Princesa City thuộc Palawan với tỷ số 5/0 đoạt chiếc cúp cho đội tỵ nạn Việt Nam. Tiếng vỗ tay vang rền khi ông Hiệu Trưởng trường trung học Philippines ở Puerto Princesa City trao chiếc cup cho Thủ Quân Thắng của đội túc cầu tị nạn Việt Nam. Có thể nói từ khi thành lập trại tị nạn Palawan đến bây giờ, đây là lần đầu tiên tất cả đồng bào tị nạn và các anh em cầu thủ vui mừng sung sướng không tả được. Chưa bao giờ đồng bào tị nạn Việt nam được tươi cười hả hê đến thế.
Vừa phát chiếc cup xong, trời đổ mưa tầm tã. Tuy nhiên, các anh em cầu thủ không ngại trời mưa, vừa ôm cup vừa chạy bộ từ sân vận động về trại tị nạn. Trời mưa lạnh lẽo nhưng không làm nản lòng các anh em cầu thủ đang dâng lên niềm sung sướng vô biên vì đã hoàn thành sứ mạng cao cả của tất cả đồng bào tị nạn, mang vinh dự về cho đồng bào tị nạn Việt Nam tại Palawan.
Đặng Thắng viết lại bài này để cám ơn các anh em cầu thủ trong năm 1979- 1980 đã mang vinh dự về cho người tị nạn Việt Nam tại Palawan.

 

Đặng Thắng – Xuân 2006

Related Articles

Vượt Biên Bằng Bè

Vượt Biên Bằng Bè

Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng…

Đọc thêm
Cụm Bèo Lục Bình

Cụm Bèo Lục Bình

Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…

Đọc thêm
SOS!Cứu chúng tôi với!

SOS!Cứu chúng tôi với!

Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.

Đọc thêm

Nhớ Về Trại Tỵ Nạn Galang

Nhớ Về Trại Tỵ Nạn Galang

Nhớ Về Trại Tỵ Nạn Galang

Hồi Ký: Nguyễn Duy-An

 Ngày… Tháng 6, 1983:

Tôi đến Galang vào một buổi chiều trời mưa như thác đổ. Cùng với hơn ba trăm người được chuyển tới từ đảo Kuku trên chiếc tầu Tegu Mulia, tôi chạy vội vào “trung tâm tiếp cư” của Cao Uỷ là một căn nhà trống ở bến tàu Galang để làm thủ tục nhập trại. Có tiếng ai đó vọng đến từ loa phóng thanh: “Đây Galang, ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người xin chào đón các bạn.” Tim tôi rộn rã một niềm vui không bút mực nào diễn tả được. Tôi đã đặt chân tới bến bờ Tự Do sau gần một tuần lênh đênh trên biển cả và hơn một tháng đợi chờ ở Singkawang, rồi Kalimatan Barat trước khi được chuyển tới đảo Kuku…

Tôi thấy lòng mình se lại! Tôi muốn bắt chước một vị yếu nhân nào đó quỳ mọp xuống để hôn lên mảnh đất của Tự Do và Tình Người nhưng tôi không đủ can đảm làm việc đó vì tôi chỉ là một tên “vô danh tiểu tốt” vừa mới thoát khỏi Việt Nam trên một chiếc thuyền tre nhỏ bé… Tôi bần thần xúc động. Tôi muốn khóc cho niềm vui Tự Do nhưng mắt tôi vẫn trơ trơ ráo hoảnh. Còn đâu nữa những giọt nước mắt thương đau để trào ra sau hơn tám năm sống kiếp đọa đày với bao nhiều lần vượt biên thất bại, bị bắt và “cải tạo” ở B5 (Biên Hòa), Bầu Lâm (Xuyên Mộc), rồi Cây Gừa (Cà Mau)… và những tháng ngày sống lây lất ở vùng “khỉ ho cò gáy” Bình Giã – Xuân Sơn, ngày hai bữa khoai mì không đủ no! Tôi đã tới được bến bờ Tự Do. Tôi đã chứng kiến bao nhiêu cảnh thương tâm của đồng bao tôi đang gánh chịu trong lòng đất mẹ Việt Nam – Quê hương yêu dấu của chúng ta. Mẹ Việt Nam ơi, con xin phép được quên đi những ngày tháng lang thang “đầu đường xó chợ” để bắt đầu lại một cuộc đời mới . Con muốn được cùng với hơn một triệu người dân Việt đang sống tha hương nơi đất khách quê người nối kết lại một vòng tay chờ ngày trở về xây dựng lại quê Mẹ dấu yêu. “Mẹ Việt Nam ơi, xin Mẹ đừng khóc nữa vì chúng con vẫn còn đây, những đứa con mang dòng máu đỏ da vàng…” Tôi được chuyển tới Barrack 1, Zone 1, trại tỵ nạn Galang I. Tôi nằm thao thức mãi tới gần sáng vì những người đến trước đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện “Galang nửa mảnh tình xù” với những đổ vỡ thương tâm, chuyện ăn chơi trác táng, chuyện tranh giành quyền lợi, vu khống, trả thù và thanh toán lẫn nhau của nhiều phe nhóm trong trại. Ôi! Trớ trêu thay cho cuộc đời! Vì không thể chịu đựng được cuộc sống mất tự do ở quê nhà nên tôi đã liều mạng ra đi bất chấp sóng gió đại dương. Tôi ra đi để làm gì? Một dấu hỏi thật lớn đã xuất hiện trong đầu làm tôi không ngủ được. Tôi sẽ lao mình vào cuộc sống hưởng thụ tạm thời ở đây chăng? Có thể lắm. Tôi đã trải qua biết bao nhiêu gian khó để vượt thoát đến đây, tôi có quyền tìm kiếm một chút gì đó để tự đền bù cho chính tôi. Tôi chỉ muốn buông xuôi theo dòng đời, phó mặc cho thời gian, người ta sao mình vậy.

Không được. Lương tâm tôi tự nhắc nhở. Tôi đã bất chấp rủi ro, tù tội, và cả cái chết, để cùng bạn bè xuống thuyền vượt biển tìm Tự Do. Tôi đã thành công. Tôi phải vươn lên. Tôi phải sống làm sao để không hổ thẹn với lòng mình khi nghĩ tới những người còn ở lại: cha mẹ, anh chị em, bạn bè và cả dân tộc Việt Nam đang từng ngày rên rỉ kéo lê tấm thân tàn trong tuyệt vọng vì “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc” nhưng vẫn khắc khoải trông mong và đợi chờ một “ngày mai trời lại sáng.” Tôi không thể buông xuôi. Tôi không thể sống trong tuyệt vọng. Tôi phải can đảm đứng lên làm lại từ đầu.

Ngày… Tháng 7, 1983:

Tôi nhận lời cha Đỗ Minh Trí (Gildo Dominici) dọn vào trung tâm “Unaccompanied Minors” để “cùng ăn cùng ở” với gần hai trăm trẻ em không thân nhân như một người anh cả của đám trẻ ngang bướng và ngỗ nghịch nhất ở trại tỵ nạn Galang. Tại đây, tôi đã gặp một vài em chỉ mới sáu, bảy tuổi rất tội nghiệp vì cha mẹ của các em bị “rớt” lại lúc di chuyển từ “taxi” ra thuyền lớn… Tôi đã trằn trọc suốt đêm sau khi nghe một em bé mồ côi kể lại chuyến hải hành đầy máu và nước mắt, và chính em đã tận mắt chứng kiến cảnh cha mẹ bị hải tặc dùng búa tạ đập vỡ sọ trước khi vất xác xuống biển!

Theo chỉ thị của Cao Uỷ, trung tâm chỉ nhận những trẻ em không thân nhân dưới mười sáu tuổi. Tuy nhiên cũng có rất nhiều em đã lớn nhưng khai rút tuổi nên “ban lãnh đạo” còn phải đứng ra dàn xếp nhiều chuyện “gỡ rối tơ lòng” của tuổi đôi mươi mặc dầu đa số chúng tôi cũng chỉ lớn hơn các em vài tuổi. Trung tâm được các huynh trưởng của đoàn Thanh Niên Công Giáo, Tin Lành, Gia Đình Phật Tử và Hướng Đạo Việt Nam tận tình giúp đỡ nên chỉ trong một thời gian ngắn, tất cả các em đều được “đoàn ngũ hóa” và sắp xếp theo học các lớp tại trung tâm Giáo Dục Phổ Thông.

Ngày… Tháng 9, 1983:

Sáng nay tôi buồn kinh khủng! Tôi chỉ muốn “nằm mộng nghe kèn” suy nghĩ vẩn vơ, nhưng rồi tôi cũng vượt thắng được tính ươn lười, chỗi dậy đánh răng rửa mặt rồi lững thững lê gót lên trung tâm Sinh Ngữ để vào lớp dạy. Tôi không muốn làm mất niềm tin của hơn ba mươi học trò trong lớp Anh Văn tôi đang phụ trách. Tôi đã tự hứa sẽ cố gắng hết sức để hướng dẫn các bạn tôi trau dồi thêm tiếng Anh chuẩn bị cho bước đường định cư. Tôi được may mắn học hành tạm đầy đủ lúc còn ở quê nhà, bây giờ tôi phải đem hết khả năng ra phục vụ đồng bào đang chờ đợi ở trại Galang này. Tôi và “học trò của tôi”, chúng tôi đã gặp gỡ, chia sẻ tâm sự thật nhiều từ ngày đầu tiên tôi đến nhận lớp. Tôi phải “hiên ngang” lên lớp mặc dầu tôi đang “rầu thối ruột”!

 

Chiều hôm qua, trên quãng đường từ bãi biển trở về với các em “minors” tôi đã tình cờ gặp lại một người lớp đàn anh học cùng trường từ trước năm 1975. Tôi không thể nào tưởng tượng được là anh ta vẫn còn ở Galang. Anh ấy đã rời Việt Nam từ cuối năm 1980. Tại sao lại có những người phải ở trại tỵ nạn một thời gian dài đến thế? Tôi đã thấm thía cảm nhận được thân phận của một người tỵ nạn không có thân nhân qua lời tâm sự của anh: Cậu không thể ngờ được là mình vẫn còn ở đây phải không? Mình bỏ nước ra đi với bao nhiêu hoài bão phải không Duy? Nhưng bây giờ, sau gần ba năm đợi chờ, mình đã chán nản và tuyệt vọng lắm rồi. Cậu nghĩ xem, mình chưa xong Đại Học thì “nước mất nhà tan”, lang thang mãi hơn năm năm sau mới tìm được đường ra đi. Mình không còn là “minor” nhưng cũng chưa đủ lớn để đi lính hay làm việc cho chính quyền trước năm 1975 nên không có tiêu chuẩn ưu tiên đi Mỹ. Tới đảo được ba tháng mình bị phái đoàn Úc “đá đèn” vì lúc ấy có quá nhiều người xin đi Úc, nhân viên phái đoàn cứ rút đại một số đơn trong xấp hồ sơ, ai hên được gọi phỏng vấn, mình không may nên lọt sổ. Sau đó mình được Canada nhận nhưng sáu tháng sau bị từ chối vì sức khỏe của mình “mèng” quá! Cậu nghĩ xem, từ lúc đi “nông trường” sau năm 1975, mình hút hết thuốc lào rồi thuốc rê để chống muỗi, sang đây cứ năm ngày một bịch P3V, thân nhân không có, mình lấy đâu ra tiền để tẩm bổ mà sức khỏe chẳng “mèng”, phổi nào mà chẳng có vấn đề, phải không? Mình nản quá, không còn tin tưởng gì ở tương lai… Mình cóc thèm học hành hay làm thiện nguyện việc gì cho mệt xác, cứ ngày hai bữa Cao Uỷ nuôi!

Đêm qua tôi lại mất ngủ! Tôi không tài nào hiểu được tại sao người đàn anh đáng kính cùng trường với tôi bây giờ lại bạc nhược đến thế. Tại sao một người có trình độ đại học như anh mà không được phái đoàn nào nhận? Tại sao một người có học thức như anh mà bây giờ lại chấp nhận một cuộc sống tẻ nhạt và chán chường đến thế? Người tỵ nạn chúng tôi chẳng có một lựa chọn nào hết. Chấp nhận bỏ nước ra đi là chấp nhận tất cả… Biết đâu rồi cá nhân tôi cũng dần dần bại xuội như thế! Hoàn cảnh bây giờ đã khác xưa nhiều lắm. Nhân dân và chính phủ các nước đồng minh đã không còn đủ kiên nhẫn để cưu mang mãi một dòng người từ Việt Nam bỏ nước ra đi kéo dài đến bất tận. Người ta đang nhìn chúng tôi, những người tỵ nạn, như là một gánh nặng cần phải vứt bỏ càng sớm càng tốt. Đã có nhiều nơi người ta xua đuổi không cho thuyền của người tỵ nạn vào bờ!

Xin cám ơn Thượng Đế, Cao Uỷ tỵ nạn, chính quyền và nhân dân Indonesia… còn để lại cho chúng tôi một cái phao. Galang là một trong những trạm dừng chân cuối cùng còn mở cửa tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam. Đã có không biết bao nhiêu ngàn người đã dừng chân nơi đây trong những năm vừa qua, và cũng đã có nhiều người chọn nơi này làm quê hương vĩnh viễn trong một nghĩa trang hiu quạnh bên con đường nhỏ nối liền hai trại tỵ nạn ở Galang. Tôi cứ miên man suy nghĩ suốt đêm dài để buồn thương thật nhiều cho thân phận của người tỵ nạn. Sáng nay tôi đến lớp như một cái xác không hồn. Tôi cứ bị ray rứt mãi khi được biết còn quá nhiều người đang sống trong tuyệt vọng ở nơi đây!

Một khi niềm tin và hy vọng đã chết, con người sẽ sống như tôi con vật. Tôi lo lắng rồi mai đây chính tôi cũng sẽ lâm vào tình trạng như thế. Tôi cứ thắc mắc mãi với hai tiếng tại sao. Tôi đã quyết định phải tự kiềm chế bản thân trước mọi gian khó để không bao giờ tuyệt vọng. Tôi phải luôn luôn tỉnh thức để không bao giờ buông xuôi theo hoàn cảnh đẩy đưa, cho dẫu tôi có khổ cực tới mức nào ở trại tỵ nạn cũng chẳng thấm vào đâu nếu đem so sánh với những người còn kẹt ở lại quê nhà. Ở đây tôi không có thân nhân “viện trợ” nên phải ăn uống cực khổ ư? Tôi có bao giờ nghĩ tới bao nhiêu người đang phải vật lộn với cuộc sống đói khổ rau cháo qua ngày trên quê hương yêu dấu Việt Nam hay không? Tôi bị các phái đoàn từ chối và phải ở đây làm “chúa đảo” ư? Tôi phải bình tĩnh suy nghĩ lại. Tôi không thể quên rằng lúc này vẫn còn hàng ngàn bạn bè đang vật vã trong trại cải tạo hay trên những nông trường lao động không công… Ai khổ hơn ai? Tôi đã vượt thoát tới được “ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người” trong khi hàng ngàn người khác đã ra đi nhưng chẳng bao giờ tới bến. Bây giờ tôi không làm được gì cho quê hương, dân tộc Việt Nam ở bên kia bờ biển Thái Bình Dương, nhưng tôi có cả một cộng đồng trước mặt đang cần đến bàn tay phục vụ của những người như cá nhân tôi. Tôi phải sống xứng đáng là “con rồng cháu tiên”! Tôi tự hứa sẽ cố gắng hết mình để vươn lên. Gian khó hôm nay chuẩn bị cho vinh quang ngày mai.

Ngày… Tháng 11, 1983:

Bao nhiêu mộng đẹp và ước vọng về tương lai của tôi đã hoàn toàn sụp đổ sau năm tháng ở Galang, sau khi biết tin mình không được xếp vào bất cứ một “diện ưu tiên” nào để đi Mỹ… Tôi chỉ còn biết nằm chờ một dịp may rất nhỏ khi phái đoàn Mỹ mở hồ sơ “hốt rác” mỗi năm một lần! Chán nản. Buông xuôi. Tôi ngồi lỳ trong quán cà phê suốt buổi sáng, bỏ mặc học trò đến lớp chờ đợi rồi lang thang “bát phố” vì không có người hướng dẫn. Tôi bực mình. Tôi thất vọng. Tại sao phái đoàn Mỹ không chịu mở hồ sơ phỏng vấn tôi? Tôi làm thông dịch viên cho Cao Uỷ. Tôi trông coi các trẻ em không thân nhân trên đảo, trong đó cũng có nhiều em “lai Mỹ”. Tôi dạy tiếng Việt cho nhân viên các phái đoàn… Tôi đã lăn lộn tối ngày sáng đêm với bao nhiêu công tác thiện nguyện nhưng có được nâng đỡ gì đâu! Tôi bỏ bê mọi sự. Tôi chỉ muốn lè phè cho qua ngày.

Chiều nay tôi nhận được lá thư đầu tiên của Mẹ từ Việt Nam gởi qua. Tôi thật sự xúc động khi đọc lại những dòng chữ thân thương của mẹ. Mẹ tôi như đã biết trước tâm trạng của tôi lúc này nên viết cho tôi những lời khuyên xác thực. Lá thư của mẹ đến thật đúng lúc. Tôi đã tìm lại được nghị lực. Tôi phải chỗi dậy bắt đầu lại. Tôi không có quyền lè phè trong khi ở quê nhà còn bao nhiêu người thân yêu đang sống trong tức tưởi, mòn mỏi đợi chờ và hy vọng những người đã ra đi như tôi sẽ làm được một chút gì đó cho quê hương, dân tộc. Tôi đã ngã quỵ nhưng tôi phải thu hết can đảm đứng lên đương đầu với thực tế để vươn lên và vươn lên mãi. Tôi phải tiếp tục đi theo con đường phục vụ thay vì phè phỡn ăn chơi cho qua ngày tháng ở trại tỵ nạn. Tôi phải tìm lại niềm vui cho chính mình để tiếp tục sống những ngày đáng sống ở Galang trong niềm vui phục vụ… Rồi sóng gió cũng sẽ qua nhanh.

Read more

Nguyễn Duy-An

Related Articles

Vượt Biên Bằng Bè

Vượt Biên Bằng Bè

Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng…

Đọc thêm
Cụm Bèo Lục Bình

Cụm Bèo Lục Bình

Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…

Đọc thêm
SOS!Cứu chúng tôi với!

SOS!Cứu chúng tôi với!

Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.

Đọc thêm

Thuyền Nhân

Thuyền Nhân

Thuyền Nhân

Image source: https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/33569826123

Pham Terry The

Cho những ai, từng một thời, mang trên mình hai chữ Thuyền Nhân.

Cho những người, trên hành trình vượt biển tìm tự do, họ bị hãm hiếp, họ bị cướp bóc, họ bị bắt bớ tù đày.

Cho những người đã phải vĩnh viễn bỏ lại thân xác dưới lòng đại dương.

Và cho cả bạn bè tôi, những người đã thoát chết trên biển, nhưng cuối cùng cũng đã bị dùng vũ lực cưỡng bức trở về nguyên quán.

Đêm nay trên bản đồ có một thuyền ra đi

Hiên ngang trên sóng gầm tự do đón chào

Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng

Nhìn lại bến bờ nước non mình muối mặn

Khóc nghẹn ngào…*

Từ sau ngày 30/4/1975, từ điển ngôn ngữ thế giới có thêm một thuật ngữ mới: Boat People (Thuyền Nhân), một định nghĩa ám chỉ những người tị nạn Việt Nam chạy trốn khỏi quê hương bằng thuyền.

Mới đó, mà đã 43 năm. Bốn mươi ba năm, lịch sử hai chữ Thuyền Nhân, nó được viết lên không chỉ bằng những cuộc vượt biên ồ ạt, bị bại lộ, bị bắt bớ tù đày, những cuộc chia lìa, những tan vỡ, những mất mát thương đau.  Mà nó được viết bằng cả bể máu và nước mắt.  Bằng vô số những cuộc cướp bóc, hãm hiếp của hải tặc.  Bằng hàng chục ngàn những vụ giông tố đắm tàu thuyền, đem theo hàng trăm ngàn những thân phận xấu số xuống lòng biển Đông trước khi nhìn thấy bóng dáng bên kia của bến bờ tự do.  Bằng biết bao những vụ phải ăn thịt chính những người thân đã chết trên thuyền để tự cứu mình khi không còn gì ăn để sống.  Bằng những năm tháng dài bị giam cầm vật vã, vô vọng trong các trại tạm giam…

Lịch sử bi thương của hai chữ Thuyền Nhân Việt Nam kéo dài 20 năm (1975-1995), chưa có một cuốn sách nào, một nhà văn nào viết đầy đủ về nó, bởi vì nó không có bút mực nào có thể tả xiết.

Hai chữ Thuyền Nhân, từ sau ngày 16/6/1988, nó lại được thế giới biết đến, nghe đến hãi hùng nhiều hơn nữa, trong bối cảnh, trước nguy cơ dòng người Việt Nam ngày càng ồ ạt bỏ nước ra đi.  Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hợp Quốc (United Nation High Commissioner for Refugee, viết tắt là UNHCR) đã vội vàng phối hợp cùng với các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hồng Công họp bàn khẩn cấp và đưa ra một chương trình gọi là Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện (Comprehensives Plan of Action/CPA) để nhằm ngăn chặn làn sóng tị nạn ra đi từ Việt Nam.

Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện CPA này nhằm đưa tất cả những thuyền nhân nào đến các trại tạm trú ở HK và ĐNA sau lúc 0 giờ ngày 16/6/88 sẽ phải trải qua một quy trình gọi là thanh lọc cực kỳ khắt khe (screening policy) để phỏng vấn xem người đó có hội đủ điều kiện để công nhận là người tị nạn chính trị theo công ước Geneve 1954 về người tị nạn hay không.  Mục đích chính của chính sách này là chỉ để hợp thức hoá chuyện cưỡng bức hồi hương, rồi tiến tới việc đóng cửa toàn bộ các trại tị nạn trong toàn khu vực.

Tình thương của thế giới nhân đạo với dân tị nạn Việt Nam, chính thức từ ngày này, đã mệt mỏi và cạn kiệt, đã ngoảnh mặt làm ngơ.

Tuy nhiên, chương trình CPA này, cũng làm cho những người đến các trại trước ngày 16/6/1988 mặc nhiên được công nhận là người tị nạn (refugee), được dồn từ trại cấm (closed camp) ra trại tư do (opened camp), được phép đi làm, và được tiếp nhận định cư ở một nước thứ ba mau chóng.

Lúc cao điểm, chỉ riêng Hồng Công, có tới trên 70 ngàn người thuyền nhân Việt Nam đến sau ngày 16/6/88.  Họ bị giam cầm tại các trung tâm giam giữ trong những điều kiện sống kinh hoàng, trong nhiều trại, họ bị đối xử như súc vật bởi sự quản lý và điều hành do Sở Trừng Giáo Hồng Công (Correctional Service Department/CSD), bởi chính những kẻ gọi là “Đầu Gấu” người Việt cùng trại quấy rối hành hạ đồng bào cùng cảnh ngộ.

Chỉ có một số rất ít sau đó được công nhận là người ti nạn, rồi được đi định cư ở một nước thứ ba.  Số còn lại, hầu hết, sau 5,6 năm bị vật vã giam cầm trong các trại, cuối cùng họ đều phải bị cưỡng bức trở về nguyên quán, và bắt đầu một cuộc sống mới với hai bàn tay trắng, cùng những bị theo dõi, gây khó dễ của chính quyền địa phương trong một thời gian khá dài.  Tuy nhiên, nhiều người trong số họ cũng nhanh chóng hoà nhập trở lại và phục hồi kinh tế rất thành công.

Nhưng, mặc dù phải bị dùng vũ lực để cưỡng bức trở về, thì niềm mơ ước về một phương trời, nơi mà con người có quyền được sống, quyền được tự do, mãi mãi, không bao giờ ngừng khát khao trong họ.

Các bạn một thời tị nạn cùng tôi, dù ai may mắn đang định cư ở quốc gia xa xôi nào, hay phải quay trở về quê hương với cuộc đời mới, thì những năm tháng ấy sẽ mãi mãi là một phần đời không thể quên được trong mỗi chúng ta.  Cho dù có đi nơi đâu, ta cũng không quên được nhau.

Cơn ác mộng “Thuyền Nhân” đã trở thành quá khứ.  Cầu mong lịch sử của hai chữ “Boat People” đừng bao giờ lặp lại một lần nữa trên quê hương tôi.

Ôi, biết đến bao giờ những con dân đất Việt mới hết cảnh phải tìm đường bỏ nước ra đi?

Pham Terry The
Số thẻ 907, số thuyền 35/88
Phiên dịch cho ISS in WHDC.
BTV Tạp Chí Tự Do- Freedom Magazine in WHDC.

Related Articles

Không Tìm thấy Kết quả

Không tìm được trang bạn yêu cầu. Hãy thử tìm lại, hoặc dùng điều hướng bên trên để tìm bài đăng.