Không Tìm thấy Kết quả
Không tìm được trang bạn yêu cầu. Hãy thử tìm lại, hoặc dùng điều hướng bên trên để tìm bài đăng.
Hồi ký: Nguyễn Hữu Ba
Quê tôi thuộc xã Bình Phú – Huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định (nay là Huyện Tây Sơn, nơi xuất phát của 3 anh em Tây Sơn – Nguyễn Huệ). Mẹ tôi họ Bùi thuộc dòng dõi Bùi Đắc Tuyên, Bùi Thị Xuân. Trong khoảng từ 1945 – 1954 gia đình tôi sống trong vùng Việt Minh, bị chúng ghép vào thành phần địa chủ. Cha mẹ tôi bị chúng đấu tố rất khổ nhục, cho nên trước năm 1975 thỉnh thoảng tôi về thăm nhà, mẹ tôi thường dặn “nếu VC mà vào thì con ở đâu được cứ ở, đừng về đây. Nếu con về đây thấy tụi nó làm nhiều điều chướng tai gai mắt, con nhịn không được, cãi lại nó thì nó sẽ giết con chết”.
Cho nên sau 30-4 bằng mọi giá tôi phải bám trụ lại Sài Gòn, không về quê và khi ra phường xin giấy tạm trú tôi khai sụt cấp bậc. Vì vậy tôi chỉ “học tập” ở rạp Đại Lợi (gần chợ Ông Tạ) ba ngày. Sau đó tôi buôn bán qua quít sống qua ngày. Cực khổ thì đã đành, nhưng ngày nào cũng phải nhìn những khẩu hiệu chướng mắt, không thật và tai thì phải nghe mấy cái loa tuyên truyền láo khoét tôi không chịu được. Tôi thường nói với những người thân “giả sử VC cho tôi một tòa biệt thự, xe cộ tiền bạc xài thả cửa suốt đời, tôi cũng không thèm sống với VC” vì nó nói láo quá. Chẳng hạn, nhà máy hay ruộng đất của người ta nó bắt ép người ta phải “hiến” cho nó mà nó cứ nói là người ta tự nguyện hiến cho Nhà nước. Trên đời này có ai mà tự nguyện đưa hết của cải mình cho nó bao giờ. Cho nên tôi tìm mọi cách để vượt biên. Từ 1976 đến cuối năm 1978, tôi tổ chức rất nhiều lần đều thất bại. Lý do là tôi không tin tưởng mấy ông chủ ghe. Thứ hai, tôi là Hải Quân nên rất khó lân la tới các xóm chài lưới để móc nối. Đến đầu năm 1979, có người biết tôi là Sĩ quan Hải Quân và giới thiệu tôi về Qui Nhơn để lái chiếc tàu đăng ký bán chính thức. Tôi về ở đó ba tháng để coi sửa chữa hai chiếc tàu. Tôi lái một chiếc và một ông Trung Úy ở Sài Gòn ra lái một chiếc. Tất cả mọi việc chuẩn bị đã xong thì thình lình ngày 20-7-1979, sáu mươi nước trên thế giới họp ở Geneva về vấn đề người tỵ nạn Việt Nam ra đi quá nhiều làm cho các nước Đông Nam Á khốn đốn. VC đi dự họp, chúng hứa là từ nay sẽ không cho một người Việt Nam nào rời khỏi nước, thế là từ đó VC ngưng chương trình bán chính thức. Ngày 5-9-1979 tôi phải dẫn các con trở vào Sài Gòn để đi học lại.
Hàng ngày, sau khi sấp nhỏ đi học tôi nằm nhà một mình như muốn điên. Tôi chịu không nổi nữa. Một hôm tôi bàn với vợ tôi là tôi sẽ đi tìm mua một chiếc xuồng cao su mà trước đây người nhái thường dùng để đi phục kích (loại này ở Úc cũng thường thấy). Thế là tôi đi dạo các chợ trời để tìm mua, nhưng không có ai bán. Về nhà tôi suy nghĩ “nếu người ta có, người ta cũng không bán cho mình. Và nếu họ bán tôi cũng không đủ tiền mua”, (vì lúc đó tôi chỉ còn vỏn vẹn một cây vàng). Thế là từ hình ảnh chiếc xuồng cao su, tôi mới phác họa ra chiếc bè. Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng không bao giờ chìm”. Vợ tôi cũng tin tưởng vào tôi, nói “vậy được đó, làm đi”.
Đó chỉ là cái ý đại cương vậy thôi. Tôi bảo để tôi tính chi tiết lại đã. Ngày hôm sau, tôi ra chỗ vá xe đạp ở lề đường, tôi đo đường kính trong và ngoài của cái ruột xe tải 900-20. Tính ra, một cái ruột xe tải bơm cứng có thể chở được 150kg. Tất cả gia đình tôi, hai vợ chồng, bốn đứa con, hai đứa em và một đứa cháu + lương thực + nước uống + khung sườn, tất cả độ 750kg (tôi cần hai đứa em và đứa cháu để phụ tôi bơm ruột xe và để bơi ra khỏi bờ, vì sóng ở gần bờ cứ dập vào rất khó bơi ra). Như vậy nếu tôi ráp được chín cái ruột xe (1350kg) thì tốt hơn. Nhưng nếu ráp chín cái ruột xe thì khung sườn bằng gỗ dài (5,3m) dễ bị gẫy. Nên cuối cùng tôi quyết định ráp bảy cái (1050kg). Khi bỏ bè xuống nước phần nổi độ 10cm. Thế là tôi lấy giấy bút ra vẽ chi tiết cái bè (tôi đậu tú tài Kỹ Thuật, nên biết vẽ Kỹ Nghệ Họa). Xong tôi ghi ra hai tờ giấy, vợ tôi giữ một tờ và đạp xe đi mua cốm dẹp, đường, dây nylon, can nhựa, poncho v.v… Còn tôi đi mua gỗ và tìm thợ mộc để làm cái khung sườn + ruột xe. Tôi nhớ hoài nét mặt của ông thợ mộc khi tôi đưa tấm sơ đồ, ổng cứ nhìn ngang nhìn dọc, ổng không hiểu cái đó là cái gì?
Riêng bốn cái mái chèo tôi chỉ nhờ ổng làm phần A. Còn phần B tôi mua một tấm ván mỏng dày một phân rồi lấy dao tự đẽo. Khi ra tới bãi tôi chỉ việc lấy phần A và B ráp với nhau rồi đóng hai cây đinh là xong. Chứ nếu để cho ông thợ mộc làm cả phần A và B thì ổng sẽ biết đó là cái mái chèo. Riêng hai cái khung sườn tôi đánh số bằng sơn trắng từ A1, A2 đến A11 và B1, B2 đến B11 và bó lại thành hai bó. Công an lên xét xe, tụi nó chẳng biết đó là cái gì?
Trước khi đi, tôi dự kiến là bè có thể bị lật, nên ngoài tôi và ba đứa em (14, 16 và 19 tuổi) biết bơi, vợ và bốn con tôi phải mang phao và tất cả đều có dây dù cột dính vào bè (dây dài 2m để di chuyển trên bè). Nhưng làm sao có phao để mang? Tôi phải dùng can nhựa, bốn đứa nhỏ thì một cái 5 lít ngay trước ngực và một cái 5 lít ngay sau ót, còn vợ tôi thì can 10 lít. Đó là dự kiến như vậy, nhưng thực tế tôi đi trong cơn bão hai ngày hai đêm không lật một lần nào. Lý do là bè rất thấp (1 tấc) cho nên trọng tâm của bè không thể lọt ra ngoài chân đế, nên không bị lật.
Tất cả những sự chuẩn bị này, đối với tôi không có gì là khó khăn cả. Chỉ có một điều khó khăn nhất cho tôi là làm sao di chuyển số đồ đạc này ra bãi biển Cà Ná (gần Phan Rang). Chỉ riêng điều này không thôi cũng làm tôi tính toán nát óc. Chuyện là như thế này:
Đúng ra tôi phải chọn bãi Bạc Liêu, Cà Mau hay Vũng Tàu là tốt nhất vì tháng 10 là mùa gió Bấc, bè sẽ trôi vào hướng Nam, cho nên nếu chọn bãi càng vào phía Nam càng tốt. Nhưng ngặt nỗi những nơi vừa kể tôi không quen ai gần bờ biển cả. Cho nên cuối cùng tôi phải chọn bãi Cà Ná, vì bãi Cà Ná có đường Quốc Lộ 1 chạy sát mé biển. Nhưng cái khó khăn là tại bãi biển này không có nhà dân, không có suối, nghĩa là không có nước ngọt, mà nước ngọt thì không thể chở từ Sài Gòn ra được. Hồi đó, công an lên xét xe, thấy nước ngọt là chắc chắn mình sẽ bị “tó” đầu. Bây giờ chỉ còn một cách là đi xe từ Sài Gòn ra, mang theo can không, tới Phan Rí (cách Cà Ná độ 50 cây số) hoặc Long Hương (cách Cà Ná độ 30 cây số) hoặc Vĩnh Hảo (cách Cà Ná độ 14 cây số) dừng xe lại lấy nước. Rồi tới Cà Ná xuống xe. Nói thì nghe dễ vậy, nhưng chủ xe nào chịu dừng xe lấy nước ngọt cho mình, rồi bỏ xuống Cà Ná. Bởi nếu rủi ro bị bắt thì tài sản xe cộ của họ cũng mất luôn. Ai dám giúp cho mình chuyện này, ngoại trừ mình có thật nhiều tiền, nhưng tôi thì không. Trước khi đóng bè tôi chỉ còn một cây vàng độ 2,200 đồng tiền VC. Sau khi làm xong bè tôi còn lại 800 đồng. Chủ xe nào lại chịu lấy số tiền này cho một kế hoạch vượt biên. Cuối cùng tôi vạch kế hoạch “liều” gồm hai bước như sau:
Tôi ra bến xe Điện Biên (ở đường Phan Thanh Giản, gần ngã tư Hàng Xanh) xe vận tải Qui Nhơn thường đậu ở đây. Mục đích là gợi chút tình đồng hương để dể năn nỉ. Tôi không đi xe đò, vì xe đò đông khách, bãi Cà Ná lại vắng vẻ, không có nhà ở, khi mình xuống xe ở đó thì hành khách trên xe (có thể có cán bộ VC) họ sẽ nghi mình vượt biên. Nên tôi chọn xe tải chỉ có một tài xế và một lơ xe.
Khi trả giá xong xuôi như một hành khách bình thường đi từ Sài Gòn đến Phan Rang độ 300 đồng. Tôi sẽ là người ngồi đằng trước với tài xế và cố gắng lấy cảm tình của ông ta. Khi xe tới Phan Thiết (200 cây số). Đãi ông ta và lơ xe bữa cơm trưa để gây cảm tình. Sau khi ăn cơm xong, xe bắt đầu chạy tôi sẽ thố lộ cho tài xế biết là mình đi vượt biên và nhờ ổng giúp giùm, bằng cách tới Phan Rí (cách Phan Thiết 70km) dừng lại lấy nước cho mình. Trong túi mình còn lại 500 đồng đưa hết cho ổng. Tuy nhiên, đối với giới xe tải 500đ này rất nhỏ, không có tác dụng gì mấy, chỉ hy vọng vào tấm lòng nhân đạo của ổng giúp mình mà thôi. Nhưng đây là một điều nguy hiểm, rủi ro có thể mất hết tài sản dễ gì ổng giúp mình. Cho nên trước khi thuê xe phải xem xét kỹ lưỡng ông tài xế để “chọn mặt gởi vàng”
– Thứ nhất ông này phải là người chống cộng (có chống cộng mới giúp mình vượt biên chứ)
– Thứ hai là có lòng nhân hậu. Không coi trọng vật chất mấy, nghĩa là không ham tiền quá.
Cả hai tiêu chuẩn này đều do trực giác của mình phán xét vì ông ta với mình có quen nhau trước đâu mà biết được. Vậy mà may mắn sao tôi lại chọn đúng người.
Bước thứ hai, nếu tới Phan Rí mà ông tài xế vẫn khăng khăng không dám giúp mình thì sao? Tới đây bắt buộc cả gia đình tôi phải xuống xe và phân tán mỏng. Gia đình tôi giữ hai cái can, hai đứa em và cháu tôi mỗi đứa hai cái (tất cả tám cái) trà trộn vào mấy quán cơm dọc hai bên đường ăn cơm và tìm cách lấy nước. Độ 1 giờ 30 phút sau, tôi thuê một chiếc xe lam từ Phan Rí đi Phan Rang (độ 70km), lần lượt đón hết mấy đứa em lên xe. Khi lên xe, tôi ngồi băng ghế trước với tài xế, thủ một con dao. Đứa em 19 tuổi cũng ngồi phía bên kia thủ một con dao. Khi xe đến Cà Ná, đợi đến khúc đường vắng vẻ, hai anh em tôi sẽ chĩa hai mũi dao vào hông ông tài xế bắt phải lái xe vào bụi rậm. Xong đem tài xế ra băng sau trói chặt vào đó. Còn bao nhiêu tiền nhét hết vô túi ổng. Sau khi mình đi khỏi, ngày hôm sau đám trẻ chăn bò sẽ mở trói cho ổng. Kế hoạch thì như vậy, nhưng rất may chúng tôi chưa phải xài đến giải pháp này.
Ông tài xế xe tải, sau khi nghe tôi thố lộ đã “hồn phi phách tán”, chỉ lái xe theo phản xạ như không hồn. Nhưng vì thương gia đình tôi, ổng đã giúp chúng tôi đến nơi đến chốn và hiện giờ ổng nhận tôi là con nuôi của ổng (tôi chỉ kể vắn tắt vậy thôi, chứ nếu kể hết những gì tôi thuyết phục bác tài xế thì dài dòng lắm).
Nguyễn Hữu Ba
Không tìm được trang bạn yêu cầu. Hãy thử tìm lại, hoặc dùng điều hướng bên trên để tìm bài đăng.
Hồi ký: Lê Văn Vinh
Một tay đóng cửa phòng lại, tay kia vịn thành lan can bằng gỗ, tôi dự định bước xuống cầu thang để từ giã ba má tôi trước khi ra đi. Nhưng tôi không thể nào xua đuổi được cái hình ảnh của người vợ mới cưới của tôi đang nằm co ro trên giường. Cái bụng mang thai gần bảy tháng đã nhô ra khỏi vạt áo ngủ nhăn nhúm của nàng. Cái bào thai của vợ tôi bao lớn, nó đã nhắc cho tôi biết bấy nhiêu ngày tháng chúng tôi đã chung sống với nhau, kể từ hôm làm lễ cưới một cách âm thầm và lặng lẽ trong gia đình chúng tôi, sau những ngày mệt mỏi vì bị kiểm kê và đổi tiền.
Bên ngoài, màn đêm dày đặc đã buông xuống, tôi đứng tần ngần ở đó một lát lâu, đầu óc suy nghĩ miên man. Và rồi tôi cũng đã có một quyết định cuối cùng – tôi mở cửa phòng để bước vào lại bên trong.
Ai đó? – Vợ tôi vừa ngồi chồm dậy, vừa hỏi
Anh đây – Tôi trả lời nho nhỏ
Anh bỏ ý định ra đi rồi – Tôi nói tiếp
Vợ tôi ôm chầm lấy tôi mà không nói lời nào. Nàng không buồn mà cũng chẳng vui
Để anh xuống cho cậu hay ý định của anh – Tôi nói nho nhỏ bên tai vợ tôi.
Từ căn phòng ngủ trên lầu ba, tôi bước một cách chậm rãi xuống cầu thang. Ánh đèn nê-ông hắt xuyên qua song sắt, để lại từng mảng sáng tối trên mấy bậc tam cấp bằng xi-măng. Khác với mọi lần, lần nầy tôi thấy ánh đèn yếu ớt và vàng vọt hơn. Từ xa, tôi đã thấy ba tôi, hai tay ôm đầu gối và ngồi một cách trầm ngâm trên chiếc ghế dựa trong phòng khách đã từ lâu.
Con không đi cậu à! – Tôi vừa nhìn ba tôi vừa nói.
Ba tôi cười ồ lên, cái nụ cười mà tôi chưa thấy ông cười bao giờ.
Tao chỉ chờ mầy nói như thế mà thôi! – Ba tôi nói với vẻ mặt thật hớn hở.
Con đi một mình không yên, vợ con buồn và lo sẽ ảnh hưởng không tốt cho cái bào thai – Tôi trả lời từng chặp như để giải thích cho ba tôi hiểu.
Nói thiệt với mầy, nếu mầy đi rồi, tao lo lắm đó, việc đi đứng ai mà biết được! – Ba tôi nói tiếp.
Ba tôi với tay rót đầy tách nước trà. Tôi thấy vẻ mặt của ông tuy tươi tắn hẳn lên nhưng cũng không che lấp nổi nét lo âu của những tháng ngày phiền muộn.
Hai ngày hôm sau, từ lúc trời còn tờ mờ sáng, người anh kế của tôi cùng với mấy đứa cháu và người chị dâu lần lượt từng nhóm nhỏ xuất hiện trước sân nhà để xe của ba má tôi. Tôi nhìn họ mà không nói được lời nào. Tóc tai của anh chị tôi thật là xơ xác và mặt mày của mấy đứa cháu nhỏ trầy trụa trông thật thảm thương.
Bể rồi, không bị bắt là may! – Người anh kế của tôi nói nho nhỏ.
Mình hên quá! – Tôi nói thầm trong bụng.
Sau chuyến đi chui không thành đó, cả đại gia đình của chúng tôi bắt đầu đi tìm mối bán chính thức. Ba tôi đã tìm ra được một đường dây ở Chợ Lớn, do một số người Hoa tổ chức. Ba tôi đã từng giao dịch với họ qua công việc làm ăn của ông, trong nhiều năm trước ngày mất nước. Hai vợ chồng tôi, bằng mọi cách, gom góp số vàng của chúng tôi lại, nhưng cũng không tài nào kiếm đủ. Ba má tôi đã phải bỏ ra thêm. Và ba tôi đã thương lượng với họ bằng cách để người “tàu bua” lái chiếc xe Ladalat của ba tôi và chở riêng hai vợ chồng chúng tôi xuống Rạch Giá, rồi giao chiếc xe đó cho họ luôn. Với cách đó, chúng tôi sẽ được an toàn hơn vì không bị xét giấy dọc đường…
Trước tiên, tất cả những người đã đăng ký đều được tập trung tại một khách sạn đã bị bỏ hoang lâu ngày, do công an thị xã Rạch Giá quản lý. Sau gần một tuần lễ sống tại đó, chúng tôi không thấy động tịnh gì cả. Mọi người bắt đầu cảm thấy chột dạ. Nhưng rồi, tất cả mọi người cũng được lên tinh thần vì có tin sẽ được dời qua bên cồn Tất Cậu để chờ lệnh. Lúc đó, cái thai của vợ tôi cũng đã được hơn bảy tháng rồi. Tất cả những người thân còn lại, ai nấy cũng đều lo cho chúng tôi vì không biết được chuyến đi sẽ như thế nào, trong khi vợ tôi sắp đến ngày hạ sinh đứa con đầu lòng. Tuy thế, tôi vẫn quyết tâm ra đi và không bao giờ có ý định quay trở về Sài Gòn …
Chiều 30 Tết, năm 1978, vợ tôi đã chuyển bụng. Tôi đã giả dạng làm người dân địa phương để đưa vợ tôi qua phía bên kia bờ sông bằng chiếc đò ngang mà cho đến bây giờ, đã gần 22 năm rồi, tôi vẫn còn mường tượng ra được những cụm bèo lục bình nổi trôi bập bềnh trên dòng nước đục. Hình ảnh đó đã thật gần gũi với hoàn cảnh của hai vợ chồng chúng tôi lúc đó. Sau khi xuống đò, cả hai chúng tôi bước dọc theo con lộ bằng đất mà không dám hỏi khách bộ hành để chỉ đường. Đầu đội chiếc nón lá mà tôi đã mượn của một dân làng gần nơi chúng tôi đang ở. Chiếc áo bà ba đen và cái quần đùi đã ngả màu vì giặt nhiều lần bằng nước sông. Vợ tôi đi trước một cách nặng nề, tôi bước chầm chậm theo sau, tay xách chiếc giỏ mây đầy những áo quần và đồ dùng cho em bé. Tôi đưa vợ tôi vào bệnh viện Rạch Giá để làm thủ tục nhập viện. Lúc đó, trời đã gần xế chiều.
Bà theo tôi vào trong nằm – Cô y tá nói mà không nhìn ai cả.
Còn ông, ông về đi! – Cô ta nói tiếp.
Tôi lững thững bước ra khỏi phòng của bệnh viện mà không dám hỏi thêm câu nào.
Về ư! Về đâu ? – Tôi tự hỏi.
Trời đã bắt đầu tối, tôi đi tới đi lui trước sân bệnh viện mà lòng thì lo âu, không biết vợ mình sinh nở sẽ như thế nào. Tôi đã nghe rằng bệnh viện bây giờ không có bác sĩ, chỉ còn lại một ít y tá làm việc tại đó mà thôi. Rác rến và đồ dơ của bệnh viện được dồn lại thành từng đống và đã tỏa mùi hôi thúi. Trời đã về khuya, tôi sốt ruột quá nên đã mở hé cánh cửa phòng, nơi vợ tôi đang nằm để xem xét tình hình.
Ông muốn vợ ông chết hả? – Một người nữ nhân viên bệnh viện hét lớn.
Tôi vội vã khép cánh cửa phòng lại một cách ngoan ngoãn như một em bé mới lên năm. Tôi không dám làm gì khác hơn, vì sợ rằng nếu lỡ bị lộ thì sẽ phiền phức lắm! Vả lại, tôi cũng chưa có một chút xíu kinh nghiệm nào về việc sinh nở của đàn bà. Tôi tiu nghỉu bước ra ngoài và tiếp tục đi tới đi lui trước sân bệnh viện…
Lê Văn Vinh
Không tìm được trang bạn yêu cầu. Hãy thử tìm lại, hoặc dùng điều hướng bên trên để tìm bài đăng.
Hồi ký: Nguyen Quang
Một buổi chiều tà trong sớm thu năm 1982, tôi ngồi trên Bắc Vàm Cống nhìn dòng nước Cửu Long lững lờ trôi, mang theo những cụm lục bình đầy hoa. Nỗi buồn diệu vợi chợt đến. Tôi biết rồi đây sẽ ra đi, xa khỏi chốn này. Cuộc hành trình tìm tự do được tổ chức ra đi trên sông, tương tự thế này, còn hai tuần nữa tiến hành.
Tôi nghĩ đến bố. Không biết ông có cảm xúc và trải nghiệm như tôi hôm nay. Gần ba mươi năm trước, năm 1954, ông đã phải lìa bỏ làng quê trên đồng bằng sông Hồng, Bắc Việt, di cư vào Nam lánh nạn Cộng Sản.
Ông đi lính quốc gia, trở thành sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản chiếm nốt miền Nam; ông bị nhốt tại Katum, cái gọi là trại Học Tập Cải Tạo, thuộc tỉnh Tây Ninh. Trong khi tôi và mẹ nói chuyện với bố, lúc thăm nuôi năm 1977, thì bất chợt ông nhìn tôi tha thiết nói: “Sao con còn ở đây?”.
Câu nói như một mệnh lệnh có sức thúc đẩy. Từ đấy đầu óc tôi bị ám ảnh, suy nghĩ đêm ngày, làm sao tìm đường vượt biên. Ra đi nhiều lần, tôi mất hết tiền bạc, hai đứa con chết vì không tìm đâu ra thuốc.
Tình hình thật tồi tệ. Ai cũng nghĩ phải bỏ nước mà đi. Lúc ấy Saigon người ta thường nói : “Cột đèn mà biết đi, nó cũng đi”. Nhưng thời điểm này vuợt biên bằng thuyền thì thực là vô cùng khó khăn.
Thay vì mua một chiếc ghe, tôi nghĩ phải tự đóng lấy. Tôi liền bàn với gia đình, bạn bè, những nơi đáng tin cậy. Qua trung gian chạy chọt để có giấy phép đóng ghe, tôi mua gỗ, vật liệu chui. Tôi tìm đến một người bạn biết đóng tầu ở Rạch Giá. Anh cũng nhiều lần vượt biên nhưng chưa được. Anh đồng ý giúp tôi. Rồi tìm một địa điểm kín đáo dọc theo bờ sông Saigon để ghim lô thực hiện.
Khi con tầu gỗ hạ thủy, tôi nghiên cứu một chiến lược. Tôi tự ý cho tầu chạy vòng vòng gần trạm công an biên phòng Cần Giờ, lường trước rằng sự xuất hiện của nó sẽ tạo sự nghi ngờ cho công an trong đồn. Đúng thế, con tầu bị bắt giam hai ngày. Trong thời gian này, chúng tôi biết được giờ giấc và cách thức tuần tiễu của họ.
Sau khi được thả, tôi cho sơn vỏ tầu mầu xám và tìm mua quần áo đồng phục như công an biên phòng.
Khi khởi hành, tôi giấu con tầu trong bụi rậm trên dòng sông gần bờ biển.
Cùng vợ con leo lên được boong tầu vào lúc giữa đêm, tôi thấy số người đông quá. Lúc đầu dự trù bốn mươi, bây giờ lên đến tám chục! Trong đêm đen vắng lặng con tầu nhổ neo. Chúng tôi ra đi, tầu xuôi theo dòng nước qua nơi cửa sông thông ra biển.
Vũng Tầu hiện ra trước mắt. Trăng sáng lấp lánh. Những cụm mây trôi nổi bồng bềnh. Con tầu tàng tàng tiến tới. Những tia sáng chớp liên tục phía sau. Tôi thay quần áo, khoác vào mình y phục bộ đội biên phòng, tay cầm ống nhòm, tay kia lần tìm tràng hạt để trong túi quần. Tôi trèo lên đứng trước buồng lái. Qua ống nhòm, tôi thấy ánh sáng chớp liên tục của tầu biên phòng đằng sau, càng ngày càng rõ.
Tầu công an đang rượt theo chúng tôi. Tôi gọi Ngọc, tài công:
– Bật đèn lên, chạy chậm lại.
Đèn buồng lái bật sáng, bóng tôi hiện ra rõ trên boong, với mũ và đồng phục bộ đội. Tôi hy vọng họ nhìn ra tôi y như đồng bọn với họ.
– Có tầu Liên Xô phía trước.
Ngọc kêu lên làm tình thế thêm rối rắm! Ngọc là sĩ quan hải quân, vừa được thả khỏi tù cải tạo. Tôi quay lại, thấy con tầu sắt to lớn trước mặt, nó hiện ra lù lù trong đêm
tối.
– Cứ đi gần, đừng sát quá. Tôi nói.
Tầu Liên Xô cộng sản phía trước, công an biên phòng phía sau. Nỗi sợ gấp đôi. Bây giờ tầu chúng tôi lọt vào một vùng bừng sáng ngay trước mũi con tầu khổng lồ.
Tôi quay lại cầm ống nhòm nhìn. Lạ kìa? Tầu tuần quay mũi trở lại đi về đồn. Thật khó mà tin vào đôi mắt của mình. Lạy Chúa! Xin cảm tạ. Tôi nhìn lại tầu Liên Xô nhưng không có dấu hiệu đe dọa nào. Nỗi sợ hãi vơi đi rất nhanh.
Chúng tôi đã bỏ lại bờ biển sau lưng sau vài giờ chạy thục mạng. Tầu tiếp tục lao vào đêm đen mênh mông. Trong khi tầu hướng về phía đảo Phú Quốc vào lúc sau trưa, tôi la lên:
– Đến hải phận quốc tế rồi.
Nỗi vui mừng òa vỡ. Tôi ném hết mũ nón, quần áo bộ đội xuống biển. Con tầu trực chỉ ra khơi xa hơn, xuôi Nam, tránh vùng cướp Thái Lan. Trong bữa cơm tối hôm ấy, trăng chiếu sáng mênh mang, tôi đem hai hộp bánh Trung Thu mang theo, chia đều mọi người cùng ăn, vui mừng thoát hiểm.
Ngày thứ ba, biển động, sóng lớn, gió to. Sóng vỗ mạn thuyền tròng trành.
Chúng tôi bơm căng sáu ruột xe hơi, vài thùng nhựa plastic rỗng chuẩn bị làm phao cấp cứu. Sau khi đưa miếng sâm Cao Ly cuối cùng cho tài công, thình lình tôi cảm thấy mệt rũ rượi. Đã qua hai đêm tôi không ngủ. Tôi cố đi ra sau boong tầu, rồi nằm bất tỉnh, không còn biết gì nữa!
Sáng sớm tôi tỉnh dậy, một ngày đẹp trời, tài công đang cho tầu hướng về đảo Bornéo.
Một cột đen xuất hiện phía chân trời. Tôi và Ngọc nghĩ là tượng Nữ Thần Tự Do! Nhưng một thanh niên la lên “Giàn khoan!”. Tầu gỗ đến gần. Tầu sắt lớn hiện ra. Nó lừng lững bỏ đi. Chúng tôi kêu cứu. Nó vẫn cứ đi! Vội vã tôi mang tấm cạc tông được chuẩn bị trước, dùng sơn vẽ “SOS! You and God save us”, giơ lên cao.
Tầu lớn ngừng lại, thả neo. Nỗi hy vọng được cứu của chúng tôi trào dâng. Tầu gỗ áp sát. Một thang dây được thả xuống. Đàn ông con trai leo lên trước. Một lồng bằng dây thừng thả xuống cho phụ nữ và trẻ em được kéo lên sau. Chúng tôi đã được cứu vớt. Là người cuối cùng còn trên tầu gỗ, tôi nhìn khắp nơi lần cuối con tầu gỗ thân thương của mình. Chào nhé!
Một thủy thủ trẻ đến cho hay thuyền trưởng muốn gặp tôi. Chúng tôi cùng lên phòng lái tầu lớn. Thực ngạc nhiên, bữa trưa đã bày sẵn, bốn người đang ngồi chờ. Tôi bối rối, đứng chết trân trước cảnh này. Một người đàn ông trẻ đứng lên giới thiệu:
– Đây là ông Noel thuyền trưởng, ông Duncan phó thuyền trưởng, ông John kỹ
sư cơ khí trưởng, còn tôi là kỹ sư cơ khí, mời ngồi. Chúng ta có vài điều thảo luận.
Anh nói tiếp:
–Công ty chúng tôi ra lệnh không được vớt người tỵ nạn, trừ khi tầu của họ sắp chìm. Lẽ tất nhiên ông đã thấy chúng tôi bỏ đi, nhưng sau có vài người đề nghị, nên lấy ý kiến chung, chúng tôi giơ tay, tầu ông được vớt.
Thế ra chúng tôi được vớt vì đa số đống ý. Rồi anh giục tôi đọc tờ giấy viết bằng tiếng Anh, đại ý nói chủ tầu xác nhận lý do tại sao tầu được vớt.
Tờ giấy kê khai chi tiết về tầu gỗ, chở bao nhiêu người, tình trạng lúc vớt: tầu bị nghiêng, máy hư, hết nguyên liệu, không còn thức ăn, nước uống. Tôi chẳng còn ngần ngừ gì nữa, ký luôn. Tôi thực hài lòng khi họ cho hay, sẽ dùng tầu gỗ chúng tôi để cứu người tỵ nạn khác.
Nguyen Quang
--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---
Không tìm được trang bạn yêu cầu. Hãy thử tìm lại, hoặc dùng điều hướng bên trên để tìm bài đăng.